|
|
|
Đại Chúng số 117 - ngày 1 tháng 4 năm 2003 |
Thư Tòa Soạn |
Lời giới thiệu : Là những người yêu thích văn nghệ, nhất là văn chương Việt Nam hải ngoại, chúng tôi hân hạnh được quen biết thi sĩ Song Thái, một bậc trưởng thượng trong giới thi ca có kiến thức vô cùng vững chắc về Thơ, và là tác giả một kho tàng vô giá của cả ngàn bài thơ đủ thể loại. Khi nghe được những ưu tư của chúng tôi đối với nền thi ca hải ngoại đang được mùa về số lượng nhưng phẩm chất chung của cánh đồng lại bị đe doạ, vì một số thợ cấy lúa làm việc hấp tấp cẩu thả tắc trách, thi sĩ Song Thái đã cụ thể hoá những lời an ủi chân tình của mình với chúng tôi thế hệ thứ hai và cả những thế hệ sau, bằng cách cho phép chúng tôi, một lần nữa, gửi đến bạn đọc cũng như tất cả các tầng lớp thi sĩ Việt Nam trong và ngoài nước một bài nghiên cứu về Thơ mà thi sĩ Song Thái đặt cho một nhan đề khiêm tốn là "VÀI NÉT VỀ THƠ". Bình Huyên VÀI NÉT VỀ THƠ (tiếp theo kỳ trước) (3) Thơ LỤC BÁT : Lục Bát là 6 và 8. Vậy thơ Lục Bát cứ lần lượt làm câu 6 chữ, rồi câu 8 chữ, cứ thế tiếp tục câu 6, câu 8 chữ, muốn viết bài thơ dài ngắn bao nhiêu cũng được, miễn là phải tận cùng bằng câu 8 chữ. (a) Luật Bằng, Trắc trong thơ Lục Bát. B B T T B B Hai câu đều bắt đầu là hai tiếng Bằng, rồi đến hai tiếng Trắc, rồi lại hai tiếng Bằng. Nhưng cuối câu nào cũng là vần Bằng. Thí dụ : và Chào mừng đón hỏi dò la Luật định là như vậy, nhưng vần được áp dụng biệt lệ nhất tam ngũ bất luận. (Xin nhắc lại : Bất luận (=không kể) nghiã là trong một câu thơ có vài chữ không cần phải theo đúng luật Bằng hay Trắc. Trong câu thơ Đường thì chữ thứ nhất, thứ ba và thứ năm không phải theo đúng luật Bằng hay Trắc). Thí dụ : .....Nỗi nàng canh cánh nào quên Mai cốt cách, tuyết tinh thần Tiếng cuối câu 6 vần với tiếng thứ sáu câu 8. Trăm năm trong cõi người ta (4) Thơ SONG THẤT LỤC BÁT. Thơ Song Thất Lục Bát nghĩa là hai câu 7, rồi đến câu 6, câu
8, tức là hai câu lục bát. Trải vách quế gió vàng hiu hắt (a) Luật Bằng Trắc trong thể thơ Song Thất Lục Bát. Trong câu 7 chữ trên, trừ chữ đầu, phần còn lại là Trắc Trắc,
Bằng Bằng, Trắc Trắc. Câu 7 chữ thứ nhất : O t B b B t T (b) Vần thơ của Song Thất Lục Bát. Chữ cuối câu 6 vần với chữ thứ sáu câu 8, mà đều là vần Bằng. Chữ cuối câu 8 vần với chữ thứ năm câu 7 trong đoạn nối tiếp mà cũng là vần Bằng. Như vậy, trong một đoạn bốn câu có một vần Trắc và ba vần Bằng. Chúng ta hãy đọc ( trích môt đoạn) bài thơ "Song Thất Lục Bát" dưới đây của Ngọc Hân Công Chúa khóc vua Quang Trung, thì thấy rõ cả luật và vần trong loại thơ này : Buồn thay nhẽ sương rơi gió lọt (4) Thơ THẤT NGÔN BÁT CÚ hay ĐƯỜNG LUẬT. Thất ngôn bát cú là thể thơ gồm có tám câu, mỗi câu bảy chữ. Thơ này còn gọi là Thơ Đường, tức là thể thơ thịnh hành nhất từ đời nhà Đường bên Tàu, rồi mới truyền sang Việt Nam ta. Dưới đời nhà Đường, có thi sĩ Lý Bạch là danh tiếng nhất. Một đêm sáng trăng trên sông Thái Trường Giang, rượu ngà ngà say, nom trên mặt sông thấy bóng trăng in nước đẹp quá, nhà thơ nhảy xuống sông, ôm lấy bóng trăng, bị nước cuốn đi mà chết, vừa nửa đời người. (a) Bố cục bài thơ. Câu thứ năm và thứ sáu gọi là Luận, tức là bàn bạc. Như tả
cảnh thì nói đến cảnh đẹp hay buồn bã. (b) Đối trong bài thơ. Đối ý là tìm hai ý tưởng gì cân nhau, như nhau, bằng nhau, giống nhauà mà đặt thành hai câu đi song song với nhau. Thí dụ như trong bài thơ cảnh Đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan, câu 3 và câu 4 là : Lom khom dưới núi, tiều vài chú Thì cái cảnh nom thấy mấy người tiều phu lom khom ở chân núi,
đối với cảnh lác đác bên sông có mấy cái nhà. Lom khom là Bằng đối với Lác đác là Trắc Về Loại thì hai chữ đối nhau cùng một loại, như danh từ đối
với danh từ, động từ đối với động từ, tĩnh từ đối với tĩnh từ, trạng từ đối với
trạng từ Lom khom và Lác đác đều là tĩnh tữ đối nhau Khi đối chữ mà chọn được những chữ cùng một loại như thế là đối chỉnh hay đối cân. Nếu hai chữ đối nhau mà không cùng một loại, nghĩa lại khác nhau, thì gọi là đối chọi. (c) Vần trong bài thơ. Thơ Đường hay "thất ngôn bát cú" thường dùng vần Bằng, nhưng một đôi khi cũng dùng vần Trắc. Cả một bài thơ chỉ gieo có một vần, nên gọi là Độc Vận. Trong một bài thơ chỉ có năm vần, gieo ở câu thứ nhất và các câu số chẵn, nghĩa là vần gieo ở cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8. Làm thơ Đường thì phải cố tìm vần cho thực hợp với nhau. Nếu như chơi mà cho vần với đứng là Lạc Vận. Nếu vần gieo gượng không thực hợp với nhau như nghèo với tiêu (trong thơ Tú Xương ở trên) là Cưỡng Áp (làm gượng gạo). Lạc Vận không dùng được, còn Cưỡng Áp thì nên tránh. (d) Niêm trong bài thơ Đường. Chữ Niêm, nghĩa đen là dính với nhau, là sự liên lạc giữa hai câu thơ trong một bài thơ Đường. Hai câu thơ niêm với nhau là khi nào hai chữ đầu câu thơ cùng theo một luật Bằng hay Trắc, nghiã là Bằng niêm với Bằng, Trắc niêm với Trắc. Trong một bài thơ Đường, Câu 1 niêm với câu 8 Trong một bài thơ Đường mà cả câu thơ đặc sai luật như đang đặc câu thơ theo luật Bằng-Bằng lại đổi ra làm Trắc-Trắc, hoặc trái lại, làm cho các câu thơ trong bài không niêm được với nhau thì gọi là Thất Niêm. Như thế là không được và không đúng với thơ Đường. (e) Kết luận. Làm thơ Đường (thất ngôn bát cú) mà bắt buộc phải theo đúng luật Bằng Trắc (sẽ nói dưới đây) thì nhiều khi bó buộc quá, khó khăn quá, nên các thi gia mới đặt ra lệ Bất Luận (không kể), nghiã là trong một câu thơ có vài chữ không cần phải theo đúng luật Bằng Trắc, như thế gọi là "Nhất, Tal, Ngũ bất luận". (f) Khổ độc. Khổ độc nghĩa là khó đọc, hoặc đọc lên trúc trắc, không được êm tai. Tuy đã có lệ Bất Luận vừa nói ở trên, nhưng trong một câu thơ, chữ Trắc đổi ra chữ Bằng thì bao giờ cũng được, còn chữ Bằng đổi ra chữ Trắc thì trong nhiều trường hợp, sự thay đổi ấy làm cho câu thơ "khổ độc". Trong thơ thất ngôn, chữ thứ ba các câu chẵn và chữ thứ năm các câu lẻ, đáng lẽ là Bằng mà đổi ra là Trắc là "khổ độc", không thể chấp nhận được. (g) LUẬT. Có hai luật : Luật Bằng và luật Trắc. Phần Luật này là phần khó nhất trong cách làm thơ, nên các thi nhân nhiều khi phải vò đầu nặn óc để tìm chữ dùng cho đúng. Tuy nhiên, đã có biệt lệ "nhất, tam, ngũ bất luận" nên đôi khi được châm chước dễ dãi một chút cho các thi nhân. Nhưng nếu làm thực đúng luật thì bài thơ sẽ có giá trị hơn. Bây giờ, nếu lấy chữ B thay cho tiếng Bằng và chữ T thay cho tiếng Trắc, thì LUẬT thơ "thất ngôn bát cú" sẽ như bảng dưới đây, chữ V trong ngoặc là Vần câu thơ. LUẬT BẰNG thơ Thất Ngôn Bát Cú. Câu 1 : B B T T T B B (V) Thí dụ một bài thơ LUẬT BẰNG của cụ Nguyễn Công Trứ : "TỰ THUẬT" Hai mươi có lẽ những mơ màng LUẬT TRẮC thơ Thất Ngôn Bát Cú. Câu 1 : T T B B T T B (V) Thí dụ bài thơ LUẬT TRẮC của cụ Nguyến Khuyến : "NGHỈ VỀ NHÀ" Tóc bạc lòng son chửa dám già Theo biệt lệ "Nhất, Tam, Ngũ bất luận", LUẬT BẰNG thơ "Thất Ngôn Bát Cú" cho phép chữ b, t nhỏ có thể thay thế được. Câu 1 : b B t T t B B (V) Không cần phải thí dụ vì các thi nhân đều áp dụng như thế cả. Theo biệt lệ "Nhất, Tam, Ngũ bất luận", LUẬT TRẮC thơ "Thất Ngôn Bát Cú" cho phép chữ b, t nhỏ có thể thay thế được như sau. Câu 1 : t T b B t T B (V) Trong văn chương Việt Nam còn có những thể khác như Phú, Câu Đối, Ca Trùààvà cũng nhiều hình thức như Liên Hoàn, Thủ Vĩ Ngâm, Yết Hậuà, chúng tôi xin nghiên cứu và trình bày sau. * Trên đây, chúng tôi đã sưu tầm trong một số sách cùng kinh nghiệm bản thân mà viết ra. Ước mong các vị cao minh sẽ chỉ giáo thêm cùng bổ túc cho, chúng tôi xin vô cùng cảm tạ. Song Thái Phạm Công Huyền |
|
Copyright (c) DaiChung News Media 2002
|