Đại Chúng số 136 - ngày 15 tháng 3 năm 2004

Từ cuộc tranh luận về "con mèo của Schrodinger" đến những phản ứng của một số người VN đối với ông Ng. Cao Kỳ
Thế giới và bình luận
Chuyện đặc biệt
Nỗi lòng người đi
Câu chuyện ViệtNam
Bạch Vân Am
Phê Bình Văn Học
Phóng Sự
Về Lá Tâm Thư Của Nguyễn Cao Kỳ Duyên
Điện Ảnh
Thơ Ngỏ của Hạnh Nguyện
Lễ kỷ niệm 25 năm ngày thành lập liên đoàn Chi Lăng hướng đạo VN
Về Một Quãng Đời của Trịnh Công Sơn
Vườn Thơ

Về Một Quãng Đời của Trịnh Công Sơn
- Nguyễn Thanh Ty -
(Tiếp theo Đại Chúng số 135)

- Tôi không mời anh. Tôi muốn nói chuyện với thằng kia!
Nói xong, nó quay sang Nhượng, nắm lấy tay anh định lôi đi. Nhượng líu lưỡi:
- Ơ! Không!... không!
Hai bên đang dằng co, lôi kéo. Đột nhiên, như một cảnh trong phim cao bồi, từ trong góc tối phía bên kia, một thanh niên dong dỏng cao, vẻ đẹp trai thư sinh, áo sơ mi trắng dài tay, xăn lửng, bỏ trong quần, bước tới bàn chúng tôi, với giọng rõ ràng, chắc nịch:
- Các anh đừng sợ.
Quay sang tên kia, anh gằn giọng:
- Bọn mầy muốn gì thì gặp tao đây!
Tên kia bất ngờ hụt hẫng con mồi, bước nhanh ra cửa, tay ngoắc, miệng chửi thề:
- Đ. má! Mầy ngon hả? Ngon thì ra đây!
Vị cứu tinh chúng tôi sãi ba bước tới cửa, hai tay bám vào xà ngang, cùng lúc hai chân anh phóng một đạp như trời giáng vào ngực tên kia nhanh như chớp. Trong lúc không ngờ, tên kia ngã huỵch xuống đất, ôm ngực la bài hãi vừa chửi thề luôn miệng. Đồng bọn hơn chục đứa kéo ra vây chung quanh anh, vừa vung tay, vừa hò hét:
- Đánh chết mẹ nó đi! Chém chết cha nó đi!
Chúng tôi rụng rời tay chân. Cứu tinh chúng tôi phen này chắc phải bỏ mạng với chúng. Đám khách trong quán ngồi im thin thít. Không một ai dám hó hé. Cô chủ quán đến bàn chúng tôi hỏi thăm và an ủi:
- Mấy anh có vẽ lạ, hình như mới tới đây phải không? Cái đám du đãng này ở công trường Nông Sơn trốn ra mấy bữa nay. Đêm nào chúng cũng đến đây quậy phá mà không ai dám làm gì.
Cô đưa mắt nhìn ra cửa lo lắng:
- Đêm nay số xui tới phiên các anh và cả anh kia nữa.
Trong lúc ấy, ngoài cửa tiếng hò hét, tiếng chửi thề, càng lúc càng hung hãn. Chúng vây anh thanh niên vào giữa vòng tròn, nhưng không tên nào dám xông vô tấn công.
Chợt cô chủ quán la lên khe khẻ:
- Trời! Chúng có dao!
Bây giờ chúng tôi mới thấy rõ trong tay bọn chúng đứa nào cũng lăm lăm con dao. Làm sao đây? Chúng tôi nhìn nhau không biết phải làm cách nào để giúp sức người ơn, đành trơ mắt ếch nhìn anh một cách bất lực. Nhưng lạ thay, chàng thanh niên vẫn bình tĩnh, tay chống nạnh sườn, nhìn đám du đãng đang giương nanh, múa vuốt, không một chút sợ sệt. Sau một lúc hò hét thị oai để cướp tinh thần đối phương, chúng hè nhau áp vô một lượt định tấn công anh bằng đòn hội chợ. Nhưng nhanh hơn chúng trước mấy giây đồng hồ, ba phát súng nổ chát chúa vang lên trong đêm tối tĩnh mịch. Cả bọn bỏ chạy tán loạn, té bò lê, bò càng. Vừa chạy vừa la thất thanh:
- Nó có súng! Nó có súng!
Thì ra trong lúc chúng tôi lo lắng cho sự an nguy của anh, anh rất bình tĩnh đối phó với chúng. Chờ cho chúng thật sự tấn công, anh mới móc súng ra bắn ba phát chỉ thiên thị uy, cốt hù dọa chúng mà thôi. Khi mọi sự trở lại yên tĩnh, chúng tôi mời anh vào quán để cám ơn và mời anh một chầu. Anh vui vẻ ngồi vào bàn và tự giới thiệu:
- Tôi là Triệu. Thiếu úy Triệu. Đại đội tôi mới được tăng cường tới Bảo Lộc sáng nay để bảo vệ an ninh quận.
Anh quay sang hỏi thăm chúng tôi. Sau khi nghe chúng tôi lần lượt giới thiệu và cho biết là đang dạy học tại đây, cũng vừa mới tới được mấy ngày. Anh à lên một tiếng và xoay lưng ra phía sau, ngoắc tay một cái, lập tức có hai anh khác đang ngồi nhâm nhi cà phê trong góc vội chạy đến trông điệu bộ rất cung kính:
- Dạ ! Ông thầy! Ông thầy sai gì tụi em!
Triệu nói:
- Hai anh về lấy chiếc Dodge tới đây để đưa mấy ông giáo về nhà cho an toàn!
Một anh nói:
- Khỏi cần hai người. Một mình em về lấy xe. Để thằng Xinh ở lại bảo vệ ông Thầy.
Chúng tôi lo ngại anh đi một mình nên đồng thanh:
- Anh coi chừng tụi nó trả thù.
Anh ta nháy mắt cười với chúng tôi, tay vỗ vỗ vào lưng và nói:
- Tui có cái này, đố cha tụi nó dám!
Hóa ra, thiếu úy Triệu còn có hai vệ sĩ đi kèm mà chưa cần phải ra tay. Ngoài hai vệ sĩ to như hai ông hộ pháp ra còn có ba con chó lửa nữa thì tụi nhóc du đãng cả chục đứa ăn nhằm gì. Chúng tôi kết bạn với nhau từ đêm ấy. Hơn tháng sau, đại đội Triệu hành quân đi nơi khác, gấp rút, không kịp gặp nhau nói lời từ giã. (Không biết vị ân nhân này, bây giờ còn hay mất, tôi không hề gặp lại). Đêm đó, Sơn nằm kể cho tôi nghe, thời gian ở Huế, anh làm huấn luyện viên nhu đạo cho Sở Hiến Binh Thừa Thiên. Sau một cơn bạo bệnh, anh quên hết các thế võ. Tôi nghe mà lòng hoài nghi, thắc mắc. Tôi cũng có học đôi chút về nhu đạo. Nhu đạo cốt lấy nhu thắng cương. Dùng lực người làm lực mình để chiến đấu, rất ít hao nội lực. Nếu vì bệnh hay lý do nào khác thì chỉ mất sức khoẻ hay nội lực chứ làm sao mà quên hết các thế võ. Trừ khi mất trí nhớ. Nhưng thấy Sơn trong lúc còn đang sợ về chuyện vừa rồi, tôi không tiện hỏi lại. Sau đó cũng quên luôn. Nay, lại nghe ông Trịnh Cung nhắc chuyện Sơn tập nhu đạo với đứa em, bị cú choàng vai, phải nằm viện, thành ra ốm yếu. Mối nghi ngờ Sơn nói dối để tự che đậy mặc cảm nhút nhát, hèn yếu của mình lại vụt trở về trong ký ức.
Lại nhớ thêm một lần khác, năm 1962, lúc học ở Qui Nhơn. Con trai Bình Định rất ghét nam giáo sinh Huế. Vì trai Huế mã ngoài trông rất bảnh và sang trọng. Các em nữ sinh Qui Nhơn bỏ kép "lô can" của mình chạy theo "của ngoại". Hơn nữa, Qui Nhơn lúc bấy giờ chỉ có trường trung học Cường Để là lớn nhất, nhưng chỉ có đến lớp đệ nhị mà thôi. Học sinh Cường Để đồng phục quần kaki xanh, áo sơ mi trắng "póp pờ lin Ba Trái Đào", dép lốp bánh xe hơi làm sao địch lại với giáo sinh Sư phạm quần Tergal đen, áo sơ mi dài tay trắng Nyl France, cà vạt đen, đi giầy da bóng lộn. Trông oai và bảnh chọe lắm. Ái chà! Còn cái ông thợ may tiệm may Thích nữa chứ! Thật là tài! Không biết ông bắt được ở đâu cái "tuy dô" rằng giáo sinh sẽ có món học bổng 200 đồng. Ông liền điều đình với Ban Giám đốc trường cho ông thầu may mỗi giáo sinh một bộ complet màu xám. Tiền sẽ trừ vào cuối khóa. Thế là bỗng nhiên từ trên trời rơi xuống, mỗi anh giáo sinh có một bộ đồ lớn, diện vào mỗi chiều thứ bảy, dung dăng dung dẻ với người đẹp. Trông thiệt là oách! Nó chính là cái gai lớn trong con mắt mấy anh con trai Qui Nhơn. Phải tìm cách chơi lại mới đươc! Với chiến thuật du kích, rình mò trong các hẽm vắng, bất cứ anh Sư phạm
nào có âm giọng "chi, mô, răng, rứa" đều bị đột kích. Trịnh Công Sơn là một trong những nạn nhân đầu tiên. Anh bị tước mất đôi kính cận. Tiếp mấy ngày sau, con đường từ bệnh viện Nguyễn Huệ đến trường, chỗ nào cũng bị chận và khiêu khích đánh lộn. Đã có mấy vụ ẩu đã. Dĩ nhiên, bị bất ngờ, phe ta ôm đầu máu. Chuyện này náo động cả trường Sư Phạm. Thanh Hải, cây đờn ghi ta số một, lên xin phép thầy Hiệu Trưởng Đinh Thành Chương cho lập toán đặc biệt để bài trừ du đảng. Nhưng thầy không cho. Thầy bảo: "Nhiệm vụ đó là của Cảnh Sát. Các anh đến đây để học thành thầy giáo chớ không phải để thành cảnh sát". Sau đó, thầy liên hệ với chính quyền sở tại, xin can thiệp. Sự việc kéo dài cả nửa năm mới dứt. Riêng Trịnh Công Sơn, mất đôi kính, trở thành anh mù bất đắc dĩ, không đi học được. Bạn bè phải nhờ môi giới trung gian liên lạc với tên đầu đảng xin chuộc lại đôi kính. Vậy mà Sơn lại kể với Trịnh Cung chuyện mình luyện Judo! Để làm gì?
Sau khi đại đội Triệu thuyên chuyển đi nơi khác, Sơn không dám đi uống cà phê tối nữa. Tôi ở nhà cuồng chân, buồn như chấu cắn. Mà đi một mình không có Sơn thì không vui. Một hôm, tôi cố rủ Sơn cho bằng được và cam đoan bảo đảm an ninh cho anh. Sơn không mấy tin tưởng vì tôi nhỏ con hơn anh. Sơn dò xét:
- Ông lấy cái gì bảo vệ tôi?
Tôi vỗ vào bụng và nói:
- Cái này bảo vệ cho ông và cho tôi!
Sơn cười ré lên. Đang nằm dài trên "đi-văng", Sơn nhổm dậy tới sờ vào bụng tôi, vừa cười vừa nói:
- Để coi mấy con lãi trong bụng ông to cỡ nào mà bảo vệ được tôi?
Nhưng Sơn vội rụt tay lại và nín bặt. Hai mắt tròn xoe đầy ngạc nhiên nhìn tôi thắc mắc. Giọng tôi nghiêm chỉnh lập lại:
- Được chưa?
Sơn vẫn đầy nghi ngờ:
- Ông lấy ra cho tôi coi nó là cái gì vậy?
Tôi thò tay vào áo, lôi ra một sợi dây điện, loại dây đôi, mềm, dài một thước rưỡi. Sơn lại càng thắc mắc:
- Ông đem dây điện theo dùng làm gì?
Tôi phải giảng giải sơ lược về công dụng của nó thay thế chiếc trường côn, tiện dụng mang theo bên mình, phòng khi hữu sự. Sơn tò mò:
- Tôi chưa nghe thấy bao giờ. Ông có thể kể cho tôi nghe học ở đâu và biểu diễn vài đường cho tôi coi được không?
Để cho Sơn hoàn toàn yên tâm, tôi lôi Sơn ra sân xem tôi đi vài đường lã lướt. Sợi dây điện lúc này theo sức từ trong tay tôi vung ra đã biến thành chiếc trường côn, quay tít trong không khí phát ra tiếng vù vù. Tôi chỉ biểu diễn vài đường trong bài "Thế roi tàng sư" rồi dừng lại. Sơn vỗ tay khen hay. Lúc này Sơn mới chịu mặc quần áo đi với tôi. Suốt buổi tối cà phê đó, Sơn bắt tôi kể chuyện học võ. Tôi chỉ kể đại lược thôi, chứ kể hết thì dài dòng lắm. Sơn cười khoái chí những đoạn tôi đứng tấn cho tàn cây nhang, hai chân mõi rã rời, té chỏng gọng. Hoặc tôi không chịu học các môn đao, thương, kiếm, kích mà chỉ yêu câu thầy dạy cho môn chạy trốn trong "tam thập lục kế, đào tẩu vi thượng sách."
Trịnh Công Sơn Con Người Tài Hoa Nhiều Mặt
Ngoài tài năng âm nhạc, Sơn còn nhiều tài khác nữa. Môn nào cũng xuất sắc hết. Nhảy đầm rất bay bướm. Đánh bi da hết xẩy. Xì phé khỏi chê. Trừ cái món kia...
Nhảy đầm.
Cuối năm 1964, Tỉnh cho xây cất cạnh bờ hồ một công trình tân kỳ đặt tên là "Câu lạc bộ Lâm Đồng" dành cho quân, cán chánh trong tỉnh giải trí. Câu lạc bộ có hai tầng. Tầng dưới đặt mấy bàn bi da. Tầng trên bán cà phê và đồ nhậu. Mỗi buổi chiều, tắt nắng, chúng tôi kéo nhau lên CLB nhâm nhi cà phê, nhìn ra mặt hồ. Nhà thủy tạ giữa hồ được nối liền vào bờ bằng một chiếc cầu gỗ, dáng cong cong hình cầu vòng, sơn toàn màu đỏ, ẩn hiện giữa làn sương đục, đẹp như bức tranh thủy mạc. Chúng tôi cứ tưởng chừng như ngồi trên lầu Hoàng Hạc. Thật ra chưa ai biết Hoàng Hạc lâu tròn méo ra sao. Nhất là những chiều mưa lâm râm, lất phất. Khí trời lành lạnh, se se, kéo cao cổ áo măng tô, ngồi trên lầu, nhìn về phía hồ xa xa, nhớ người yêu mà ư ử hát: "Chiều này còn mưa sao em không lại! Nhỡ mai trong cơn đau vùi, làm sao có nhau! Hằn lên nỗi đau. Bước chân xin em về mau... " Hoặc: "Chiều một mình qua phố, âm thầm nhớ, nhớ tên em..." thì từng lời, từng lời thấm không chịu được. Nhạc của Sơn phải hát đúng trong khung cảnh ấy mới hay, mới cảm hết cái hồn của lời, của nhạc.
Người quản lý CLB cho hay, Tỉnh dự định sẽ làm lễ khánh thành CLB trước Tết dương lịch. Ngày đó Tỉnh sẽ mướn một số ca ve ở Sài Gòn lên, sẽ có dạ vũ tưng bừng. Đích thân đại tá Tỉnh trưởng khai "bal". Nghe tin, anh nào cũng ạo ực. Nhưng nhìn lại toàn một đám nhà quê. Anh nào cũng chỉ biết nhảy lò cò. Trừ chàng họ Trịnh trúng mánh. Thế là cả bọn xúm lại đòi Sơn dạy nhảy. Thời gian còn hơn tháng, làm sao học cho kịp. Phải gấp lên mới được. Căn phòng tôi và Sơn ở trở thành sàn nhảy. Nhưng đám học trò láu cá, muốn trắc nghiệm tài nghệ ông thầy trước mới học sau. Sơn phải biểu diễn vài đường bay bướm. Anh mượn chiếc ghế đẩu giả làm đào, khai "bal" bằng điệu Paso dồn dập. Miệng đánh nhịp, chân bước tới lui, nhịp nhàng, uyển chuyển. Từ Paso anh chuyển sang Cha Cha Cha, rồi Be bop, rồi Tango, quay cuồng với điệu Valse, trở về với Bolero và cuối cùng đứng yên một chổ, lắc lư thân hình, nghiêng qua, ngã lại theo nhịp miệng Chắc... xình! Chắc... xình! của điệu Slow. Tất cả đều công nhận Sơn nhảy đẹp. Với đôi chân dài, Sơn nhảy Tango rất tuyệt. Thấy Sơn nhảy anh nào cũng ham. Nhưng nhìn lại mình, thấy thân hình ồ dề, thô cứng, nặng nề như trâu nước, anh nào cũng lắc đầu ngao ngán.
- Ông Sơn ơi! Tụi này mà học nhảy được như ông chắt phải tới tết Công Gô, tết Ma Rốc!
Sơn cười cười:
- Mấy cha tưởng dễ ăn hả! Hết bao nhiêu cơm gạo ở vũ trường rồi đó!
Rồi Sơn trấn an chúng tôi:
- Mà không sao! Mấy ông chỉ cần học một điệu Slow là đủ rồi. Điệu này rất dễ. Nhưng nhảy cho hay lại rất khó.
Để trấn an và gây thêm tin tưởng cho chúng tôi, anh kể chuyện một anh Tây già ở Sài Gòn, đêm nào cũng có mặt ở vũ trường. Sơn kể:
- Tôi hồi đó mới học nhảy nên cũng mê lắm. Nhưng học sinh làm gì có tiền. Thỉnh thoảng mới tới dancing, lần nào cũng gặp anh Tây già này. Anh Tây này cao lớn, có cái bụng phệ rất bự, dáng nặng nề nên không nhảy được các điệu khác, chỉ nhảy mỗi một điệu Slow. Anh ta ôm em nào cũng không hết vòng lưng vì bị cản bởi cái bụng. Anh ta cứ ôm riết em ca ve, đứng yên một chổ. Hễ nghe tiếng bass đánh xình một cái, anh ta lắc nghiêng người một cái. Cứ thế cho đến cuối bản nhạc. Có điều đặc biệt đáng tức cười ở đây là mỗi lần đến đoạn nhạc du dương, đắc ý, anh ta thình lình buông em ra, bước lui một bước, tay phải nắm lại, đấm vào lòng bàn tay trái đánh bộp một tiếng, miệng khen bằng tiếng Việt "Hay...xì" rồi bước tới ôm em lắc lư như cũ.
Sơn vừa kể, vừa làm điệu bộ khiến chúng tôi cười rũ ra. Lối kể chuyện của Sơn rất có duyên và hấp dẫn. Sau mấy ngày tập dượt ráo riết, chúng tôi cũng thuần thục như anh Tây già. Chúng tôi náo nức trông cho mau đến ngày khánh thành để được ôm mấy em và trổ tài. Nhưng gần những ngày cuối năm Việt Cộng ăn Tết sớm, rót hỏa tiễn liên tục vào hai quận Di Linh và Bảo Lộc thay pháo, chương trình vui chơi phải hủy bỏ. Bài học "Chát...xình" không có cơ hội đem ra ứng dụng.
Bida
Thường trực ở bàn bi da, bọn chúng tôi gồm năm đứa. Sơn, Tâm mập (tức Nguyễn Hảo Tâm phân biệt với Tâm lùn tức Nguyễn Văn Tâm), Nguyễn Đức Tín, Ngô Thanh Bạch và tôi. Chia thành hai phe, trường kỳ quyết đấu. Sơn và Tâm mập một phe. Tín và Bạch một phe. Tôi bị cho ra rìa vì đánh quá dở. Không bao giờ đi một "cơ" được ba điểm. Tôi được hội đồng phong cho chức trọng tài, lãnh nhiệm vụ đứng ghi điểm và phân xử những vụ ăn gian. Cuối cùng là ăn ké khi kết thúc màn quyết đấu. Đứng ngoài mới thấy rõ phong cách của từng người chơi. Tâm mập có dáng xấu nhất vì cái bụng phệ phát triễn quá sớm ở cái tuổi hai mươi bốn. Anh phải đứng dạng chân chàng hãng để cho cái bụng thấp xuống khỏi cấn thành bàn. Tay trái đặt trên mặt bàn, ngón tay trỏ cong lại như cái móc câu để giữ đầu "cơ", chứ không chịu hợp với ngón tay cái thành vòng tròn như mọi người. Ngô Thanh Bạch to con, cao bằng Sơn, đứng phải rùn chân xuống. Mỗi lần chuẩn bị thụt một quả, anh nhắm tới, nhắm lui, lưỡi thè ra khỏi miệng, quẹo qua bên trái, hai hàm răng cắn chặt. Tôi cứ có cảm giác mỗi lần anh thụt trái banh là mỗi lần đứt lưỡi. Nhất là những cú "đề trô" lại càng toát mồ hôi lạnh. Nguyễn Đức Tín đặc biệt có khuôn mặt tròn, trắng trẻo như cô Thúy Vân. Mỗi lần đi những đường cơ lắc léo, "ép phê còng tre", anh mắm môi, bặm miệng, hai con mắt ốc nhồi mở ra hết cở. Trán anh nhướng lên thành bốn lằn xếp. Anh liếm môi vài cái trước khi thụt một đường banh quyết tử. Trước khi thụt, mặt anh tái ngắt. Thụt xong, mặt lại đỏ như gấc, trước khi trở lại bình thường. Riêng Sơn, tôi thích ngắm nhìn cái dáng của anh nhất. Người dong dõng, hai chân dài, anh đứng thẳng người, hai chân chụm lại, cúi xuống mặt bàn tạo thành một hình thước ở thắc lưng. Anh đặt tay trái xuống mặt bàn, hai ngón út và đeo nhẫn xoè ra hình rẽ quạt tựa xuống mặt nỉ, ngón giữa đỡ ngón cái và ngón trỏ đan hợp nhau thành một vòng tròn, ôm khít khao đầu ngọn cơ. Trước khi quyết định một đường banh, anh chăm chú nhìn ba trái bi, tay cầm cục "lơ" miết miết trên đầu "cơ". Khi anh bỏ cục "lơ" xuống thành bàn là đường "cơ" đã quyết định. Anh đánh thong thả, nhẹ nhàng, xoay quanh bốn cạnh bàn một cách khoan thai, từ tốn, không một chút phí sức. Tối thiểu một đường cơ của anh phải từ năm điểm trở lên. Tuy nhiên, có bữa phe anh cũng thua tơi bời hoa lá. Anh không thể nào cứu nổi bồ, khi Tâm mập chơi bết bát quá. Trong khi hai tay Bạch và Tín ngang sức, ngang tài. Chúng tôi chơi giải trí không ăn tiền. Cá độ bằng những chầu cà phê, bữa cơm trưa hoặc chầu bia tùy theo giờ giấc sáng, trưa, chiều và có lúc cả buổi tối nữa.
Những ngày cuối tháng lãnh lương, càng đông, càng vui nhộn. Chúng tôi có thêm Nguyễn Văn Chất, Võ Đôn Thao biệt danh "Sư phụ" từ cầu Đại Nga, giáp ranh với Tuyên Đức về. Di Linh có Nguyễn Văn Hiện và Lâm Văn Rầm. Lại có thêm lính mới tò te Đỗ Danh Đạo hổn danh Đạo Sữa. Ngoài ra còn có những bạn nhà binh. Những sĩ quan trẻ tuổi trạc chúng tôi, nhưng "xếp bút nghiên theo việc đao cung" sớm. Đó là những anh Vĩnh, Ngự, Tinh đều cùng cấp bậc thiếu úy. Chỉ có anh Thành là trung úy, chi khu phó, đã có vợ và một con. Còn toàn là đám độc thân vui tính. Ông trùm Lãng không có tên trong bảng "phong thần" vì năm giờ chiều là ông đã trùm mền, xoa dầu Nhị Thiên Đường rồi.
Xì phé - Xập xám
Mỗi thứ sáu đầu tháng, phòng chúng tôi trở thành sòng bạc. Nhà hai anh Lãng và Đạo thành nhà chứa. Đám bạn từ các nơi về tụ lại nhà tôi chơi bạc xong, kéo về nhà Lãng, Đạo ngủ. Đánh bạc thì tôi mù tịt. Tôi không có khiếu về môn này. Sau, cố học lắm, mới biết chơi tứ sắc. Nhưng lên rác, xuống rác, trôi rác, khui, quằn, đếm lệnh chẵn, lẻ, tới trơn, tới quan thì rắc rối quá. Tôi chỉ thích đánh "bấc" của người Bắc. Môn này vui và hấp dẫn hơn bài cào. Nó hay ở chỗ là bài cùng điểm mà lại ăn nhau ở hàng thập, hàng vạn, hàng văn, hàng sách. Nhưng đám nhà nghề như Sơn, Hiện, Rầm, Bạch, Thao, Tín... đều chê. Đó là dành cho dân nhà quê. Còn dân chơi thì chỉ xập xám hoặc xì phé mới đúng điệu. Sau khi lãnh lương, buổi sáng, ăn nhậu, bi da, cà phê đã đời, anh nào không có máu đen đỏ thì về nhà Lãng ngủ. Phần còn lại về phòng chúng tôi gầy sòng. Sơn một tay chấp hết. Anh trụ từ đầu hôm cho đến sáng, người vẫn khoẻ. Nói theo kiểu Kim Dung, sắc mặt không thay đổi, hơi thở vẫn điều hòa. Nghĩa là có những anh, nửa đêm mệt quá phải ngã lưng, khò một chút. Anh khác thay tay. Sơn vẫn ngồi một chỗ, thuốc lá liên tục; cà phê hết ly này đến ly khác; không đi tiểu, mới lạ. Cứ trung bình mười ván là Sơn vơ làng hết bảy, tám. Thua quá, những lần sau, Tín cạch. Tín chấp hai tay làm bộ xá xá:
- Ông Sơn ơi là ông Sơn ơi! Tiền lương em đây! Ông cứ lấy mà xài. Đừng "rê" em vào sòng nữa. Bàn tay ông có ma, ghê thấy mẹ. Em sợ lắm!
Nói xong, Tín cười hềnh hệch, đổi giọng:
- Bố bảo em cũng chả dám chơi với ông! Ghê thấy mẹ!
Có lần tôi hỏi Sơn:
- Này, ông học nghề ở đâu vậy. Có chơi lận không?
Sơn nói cho tôi biết bí quyết đánh bạc:
- Chẳng có gian lận gì hết! Chẳng qua mấy cha ấy cứ đưa bài cho tôi coi, tôi mới thắng được dễ dàng mà thôi.
Tôi không tin, vặn lại:
- Ông lại xạo rồi! Có ai đánh bài mà lại đưa bài mình cho người khác coi bao giờ?
Sơn thích thú giảng nghĩa:
- Tôi nói đưa bài có nghĩa là họ đưa cái mặt họ cho tôi biết. Nước bài của họ hiện lên nét mặt hết. Tại ông không ở trong nghề nên không biết, không chú ý theo dõi. Ông chỉ nhìn xuống chiếu, ngó quân bài thôi. Phải không nào?
Tôi phải công nhận Sơn nói đúng. Tôi chỉ nhìn những cây bài đánh xuống hoặc những chi bài binh xong xoè ra mà thôi. Sơn nói tiếp:
- Những tay cao thủ đánh bạc họ rất trầm tính. Không bao giờ để lộ cảm xúc trên nét mặt cho đối thủ biết. Ngược lại, đôi mắt họ rất sắc. Họ kín đáo quan sát đối phương để đoán từng nước bài mà tùy cơ ứng phó. Trong khi đó, ông ngẫm lại coi! Mất tay Thao, Tín, Hiện, Rầm, hễ bài tốt thì cười nói rầm rĩ. Bài xấu thì xịu mặt xuống, chửi thề ỏm tỏi thì làm sao mà tôi không biết.
Tôi phải phục lăn kinh nghiệm của Sơn. Một chân lý không cãi vào đâu được. Dẫu bên này hay bên kia chân núi Pyrhéné.
Tuy nhiên hay không bằng hên. Sự đời có những cái trớ trêu, tréo cẳng ngỗng, không ai có thể ngờ hết được. Sơn đã đại bại trước Phạm Quang Chữ, một tay mơ mới tập chơi. Anh Chữ, chân chỉ hạt bột, ngoài giờ dạy học là về phụ với vợ trong việc mua bán. Vợ anh có gian hàng bán quần áo trong chợ. Chị vợ ngồi thu tiền. Anh chạy vòng ngoài, gom hàng, giao hàng, tất bật suốt ngày. Anh ít giao thiệp với bạn đồng nghiệp vì mặc cảm với căn bệnh nan y của anh: bệnh cùi. Chỉ là đồn đoán thôi. Anh vẫn béo tốt, da dẽ hồng hào. Duy chỉ có hai bàn tay là hơi lạ. Bắp thịt hổ khẩu giữa ngón tay cái và ngón trỏ mất hẳn. Những ngón khác co rút lại, cầm đồ vật rất khó khăn. Người ta đồn anh nhờ uống vàng hàng tháng nên mới cầm giữ được không cho bệnh phát ra ngoài.
Trước khi bọn trẻ chúng tôi được bổ nhiệm tới, Ty Tiểu Học Lâm Đồng ở trong tình trạng buồn tẻ. Chúng tôi đã đem lại một nguồn sinh lực mới cho Ty. Với phương pháp giáo dục mới và tinh thần trẻ trung đã thay đổi hẵn cái không khí đều đều, buồn tẻ bao nhiêu năm nay ở cái xứ cao nguyên này. Phạm Quang Chữ là người đầu tiên bứt ra khỏi cái ao tù nước đọng đó. Về sau, còn có thêm nhiều người nữa tham gia vào cái không khí vui nhộn, cởi mở, phóng khoáng của chúng tôi. Trong đó có cả cụ Trạch, hiệu trưởng trường Nam Bảo Lộc, sắp hồi hưu. Ông Lợi Ty trưởng, rất văn nghệ, chịu chơi. Nhiều lần xắn tay áo cùng đám trẻ "hạ cờ tay", vừa nhậu, vừa đánh bạc.
Trở lại chuyện Phạm Quang Chữ đại thắng Trịnh Công Sơn.
Bài của Chữ đỏ từ đầu đến cuối. Hai tay cầm bài lòng khòng, lèo khoèo, rớt lên, rớt xuống, binh tầm bậy, tầm bạ mà vẫn cứ thắng. Chuyển sang tứ sắc. Mới đánh vài cây anh đã "tới" mà lại tới quan, khui, quằn tùm lum. Đêm đó anh hốt trọn. Anh nào cũng nhẵn túi. Nguyễn Đức Tín nổi khùng, chửi thề:
- Địt mẹ! Đúng là thánh nhân đãi kẻ khù khờ. Mèo mù vớ cá rán. Ông bà ta bạc tóc mới nói ra được điều gì thì trúng phóc điều đó, không sai một ly ông cụ.
Quay sang Sơn, Tín thọc cù léc:
- Chỉ có bàn tay ông cùi mới trị được ông bàn tay ma!
Nói xong, Tín cười hắc hắc một thôi. Quả thật, đêm đó, Trịnh Công Sơn không còn một xu dính túi.
Cái khoản kia...
"... Em Pleiku má đỏ môi hồng...Ở đây mùa đông...đi dăm phút đã về chốn cũ." Cái ông nhà thơ nào đó đã tả cái xứ cao nguyên rất đúng. Thật vậy! Cái phố quận Bảo Lộc gom lại bằng bàn tay ở một đoạn phố ngắn. Hầu hết cư dân đều sống biệt lập trong các xứ đạo hoặc trong những "phẹt". Danh từ "phẹt" lần đầu nghe lạ tai và buồn cười. Tôi cứ có ý nghĩ thô tục khi thấy những chiếc xe Lam chở khách, hai bên hông kẻ hàng chữ chỉ tuyến đường "Bờ Lao-Phẹt." Mãi về sau, có dịp đến phẹt mới biết đó là "Ferme", trang trại của người Pháp có đồn điền trà và cà phê tại đây. Mấy ông trong xứ Tân Thanh, Tân Phát phiên âm thành tiếng Việt là Phẹt.
Cái phố quận quá nhỏ, đến nỗi có người ví von, con chó cũng nằm không đủ chỗ phải ló cái đuôi ra bên ngoài. Cho nên mấy ông giáo đi đâu cũng đụng hoc trò của mình. Học trò ở đây đi học rất trễ. Có đứa cao tồng ngồng bằng thầy. Do đó, muốn giữ cái vỏ mô phạm luôn luôn sáng như trăng rằm để làm gương soi cho học trò, chúng tôi, mỗi tháng phải kéo nhau lên tận Đà Lạt, thác Gu gha, để du hí. Ở đây, ngoài phong cảnh thơ mộng, hửu tình, còn có những em Thái trắng, Thái đỏ chuyên phục vụ cái khoản... thứ ba. Nghe nói các em có nhiều kiểu lạ hơn người Kinh. Cả bọn chúng tôi về cái khoản... đó, đều "thường thường bậc trung". Chỉ có Võ Đôn Thao là được võ lâm tôn lên hàng Sư phụ. Đã không mất tiền cho em mà còn được em bao ngược. Tha hồ cơm no, bò cưỡi.
Ngón nghề này, anh nào cũng theo xin bí kíp. Võ Đôn Thao ngoài khả năng "Yêu em thật sâu...Yêu em dài lâu...", anh còn có tài "xúc cốt" đánh lừa Hội Đồng Y Khoa để được miễn dịch vĩnh viễn. Xúc cốt, theo Kim Dung, ông tổ nói phét trong truyện chưởng thì đó là môn võ công luyện được phép làm cho thân mình biến dạng, hoặc nhỏ lại, xương cốt co lại như đứa trẻ. Ở đây, Thao chỉ cần bẻ quặt chân phải mình qua một bên, đi lặt lìa, hệt như người què. Anh biểu diễn cho chúng tôi coi. Lại được một phen cười vỡ bụng. Nhờ vậy anh khỏi đi lính. Nhưng đây chỉ là chuyện nhỏ. Quan trọng là bí kíp "Nhất dương chỉ" chúng tôi ai cũng muốn theo thọ giáo. Đứng đầu là Trịnh Công Sơn. Công lực của anh rất kém. Theo Thao, đây là cơ duyên, trời cho ai nấy hưởng, không phải ai muốn luyện cũng được.
Anh kể lại cái cơ duyên của mình:
- Lúc tôi mới mười hai tuổi, học lớp Nhất ở Tuy Hòa, Phú Yên, bỗng dưng mắc một chứng bệnh kỳ lạ. Người cứ xanh mướt, ngày càng gầy ốm. Cha mẹ tôi hết lòng chạy chữa đủ thứ thuốc vẫn không thuyên giảm. Sau có ông thầy Tàu thuốc Bắc bắt mạch, chẩn bệnh quả quyết rằng tôi mắt bệnh hượt tinh. Thầy giảng giải cho cha tôi rõ về căn bệnh này là tuổi thanh niên thường vướng phải ba thứ tinh. Thông thường là mộng tinh. Trai đang sung sức, ban ngày thấy gái đẹp, đêm mơ tưởng giao hợp mà xuất tinh. Ví như bình đầy mà tràn. Không có hại. Cưới vợ là hết. Thứ hai, không nằm mơ mà vẫn xuất tinh, ấy là di tinh, giống như cái bình nghiêng, nước đổ. Cũng không hại lắm. Phương thuốc hiệu nghiệm để chửa là cưới vợ. Còn cái này, ông thầy Tàu chỉ tôi, gọi là hượt tinh, tức giống như cái bình lũng đít, chảy ngày, chảy đêm cho đến chết. Bệnh này gây ra do thần kinh quá yếu hoặc chơi bời quá độ mà thành.
Cha tôi nghe tới đó, trợn mắt:
- Thầy nói sao? Thằng con tôi mới mười hai tuổi mà thầy nói nó chơi bời quá độ?
Ông thầy Tàu biết mình bị hớ, nói chữa:
- A! Cái này tôi nói theo sách vở mà! Nhưng ông đừng có lo. Tôi cho mấy hộp "Tam tinh Hải cẩu bổ thận hoàn", cháu nó uống một tháng là hết bệnh.
Cả chục hộp, viên nào cũng to như ngón cẳng cái, tôi cố trợn trạo nuốt. Thuốc hết mà bệnh cứ y như cũ. Nghĩa là mỗi lần có chuyện gì xúc động bất ngờ hoặc hồi hộp, lo âu thì đũng quần tôi ướt đẫm. Ví dụ làm bài thi, gần hết giờ, bài vẫn chưa xong thì bị. Thình lình ai vỗ vai hù một tiếng cũng bị. Tiếp tục uống Tam Tinh Hải cẩu cả năm, người tôi cứ rạc dần, đi đứng hết nỗi. Cha tôi phải mang tôi vào nhà thương Grall, Sài Gòn xin chữa. Ở đó bác sĩ Tây, họ tiêm vào đầu tôi cây kim dài cả gang tay để chữa. Tôi nằm ở đó gần sáu tháng thì bệnh dứt hẵn. Cha tôi tốn rất nhiều tiền nhưng cứu được thằng quí tử ông rất mừng. Đến năm mười tám tuổi, đi chơi gái lần đầu, tôi tình cờ phát hiện ra mình có khả năng kỳ diệu đó. Tôi có thể kiểm soát và điều khiển thằng "em tôi" theo ý muốn. Muốn tấn, thối, hoãn binh hoặc trường kỳ kháng chiến bao lâu cũng được. Bởi vậy, anh em trong võ lâm mới bái tôi là Sư phụ.
Nghe xong, chúng tôi đều thất vọng. Ngàn năm mới có cơ duyên một lần. Đâu đã đến phiên mình!
Mỗi lần lên Gu Gha, chúng tôi kêu bia uống vài chai cho nóng máy, thong thả ngắm các em Thái lượn qua, lượn lại để chọn thì Sơn lúc nào cũng tình nguyện làm người lính xung kích đầu tiên. Đánh nhanh, rút nhanh. Đó là phương pháp chiến đấu của Sơn. Có lần chúng tôi chưa uống hết chai bia, Sơn đã tàn cuộc chiến, mặt mũi bơ phờ, trở về hậu cứ.
- Thật phí đồng tiền, bát gạo! Tín phê bình.
Đến lượt Thao trổ tài. Quả thật lời đồn không sai. Chúng tôi cà kê đến chai thứ tư thì Thao đang hùng dũng trên đường chiến thắng trở về mang theo một tù binh: Một em Thái trắng (đồ mạo hóa) cũng Xà rông, cũng vòng cườm đeo tứ tung, nhưng chỉ nói được ba tiếng "bắt cái nước". Đó là tiếng Thượng, có nghĩa "ấy em". Còn thì nói rặc tiếng Việt. Hóa ra, em từ sông Mao, Phan Thiết lên đổi vùng. Bà chủ bắt mạch biết khách yêu hoa hay ham của lạ, đặc sản, nên treo đầu dê, bán thịt chó. Bà bắt mấy em thay đổi xiêm y, đeo vòng, giả làm sơn nữ Phà Ca câu khách.
Dần dà, thời gian sau, Sơn không tháp tùng với chúng tôi nữa. Cố "nài hoa, ép liễu" đến mấy, Sơn cũng tìm cớ thối thác. Khi thì lý do này, khi thì lý do nọ. Ngô Thanh Bạch phán một câu chắc nịch:
- Bây giờ ông Sơn có chị Năm rồi. Ổng đang hợp tác với hãng súc ve chai!
Tập vẽ
Đến bây giờ, tôi mới biết Sơn còn kiêm thêm tài hội họa và đã nhiều lần cùng các ông Đinh Cường, Trịnh Cung đem tranh đi triễn lãm khắp nơi. Lúc bấy giờ, Sơn chỉ ngồi hí hoáy vẽ theo mấy cái hình thiếu nữ mặt nhọn, một mắt. Người ốm tong, dài thoòng. Hai bàn tay thường kẹp giữa đùi. Hình nào cũng mờ mờ, không rõ nét. Sơn vẽ theo những hình bìa cuả Đinh Cường. Tôi không có óc thẩm mỹ và "i tờ rít" về hội họa nên thường phá đám Sơn trong lúc vẽ:
- Ông Sơn nè! Ví dụ như người con gái ông vẽ lâu nay, thình lình hiện ra như trong chuyện Bích Câu kỳ ngộ, thì ông có lấy làm vợ không?
Sơn đang chăm chú gôm đi vẽ lại, nghe tôi hỏi thế, ngẫn ra mấy giây mới đáp:
- Sao ông lại thô tục thế! Người đẹp trong tranh phải có cái khác người thật ngoài đời chứ. Nếu cứ phải cho giống thì chụp hình là dễ nhất. Mà đã thế thì còn đâu là nghệ thuật.
Tôi làm như hiểu ra thế nào là nghệ thuật bèn à lên một tiếng:
- Vậy nghệ thuật, nhất là về hội họa là phải vẻ làm sao cho khác với sự thật, lạ hơn sự thật, càng quái dị càng hay, đến lúc người xem không thể nào hiểu được bức tranh ông họa sĩ vẽ cái gì, thì lúc đó ông họa sĩ mới thực có tài và nổi tiếng?
Nghe tôi dài dòng cái sự "mới hiểu ra" nghệ thuật, Sơn gật gù:
- Gần gần như vậy!
- Thế thì tôi cũng sẽ nổi tiếng! Tôi sẽ vẽ tranh trừu tượng! Tôi hớn hở khoe.
Sơn trợn mắt nhìn tôi:
- Thiệt không cha? Cha mà cũng biết vẽ tranh trừu tượng? Vẽ thử tôi coi!
Tôi cười thầm trong bụng, vì Sơn bị tôi gạt:
- Dễ thôi! Tôi sẽ treo một khung tranh trống không. Nếu có ai hỏi, tôi sẽ nói: Đó là bức tranh tôi vẽ đàn bò đang ăn cỏ theo phái trừu tượng. Nếu còn thắc mắc: Đàn bò đâu? Tôi sẽ nói: Đàn bò ăn hết cỏ rồi, nó đi chỗ khác, chớ còn đứng đó làm chi!
Đến đây, Sơn chợt hiểu, cười phá lên, hỏi tôi:
- Ông đào ở đâu ra những chuyện tiếu như vậy?
- Thiếu khối gì! Cứ hỏi ông Đặng Trần Huân khắc biết.
Sơn không biết ông Huân là ai!
Chưa Có Lần Nào Hát Hay Như Thế!
Trong những ngày chủ nhật mưa dầm gió bấc, đất nhão, đường trơn, chúng tôi quây quần, có khi nhậu rượu đế với khô sặc của Trần văn Nghị đem từ quê miền Nam lên, có khi nhâm nhi cà phê làm một màn văn nghệ bỏ túi. Nhân vật chính vẫn là Trịnh Công Sơn. Anh đánh đàn, hát. Thỉnh thoảng có bài nào hợp với sáo thì tôi mang sáo ra phụ họa. Anh em cũng luân phiên mỗi người làm vài ba câu, một bản. Tuy nhiên, Sơn vẫn luôn được yêu cầu anh hát chính các nhạc phẩm của anh. Giọng Sơn không trong, không trầm. Một giọng đặc biệt, nhẹ, quyến rũ, truyền cảm, không hay nhưng cảm được người nghe. Anh hát những bài mới làm tại đây như "Chiều một mình qua phố", "Lời buồn thánh", "Vết lăn trầm", "Tiếng hát Dạ Lan" tức "Dấu chân địa đàng" Chúng tôi lặng người ngồi nghe. Không gian yên tĩnh. Thời gian ngừng lại. Ngoài trời mưa vẫn rì rào từng cơn. Không một tiếng vỗ tay, khi Sơn ngừng hát. Chúng tôi sợ tiếng động làm tan biến cái không khí đang quánh đặc lại bởi tiếng hát của Sơn và hồn chúng tôi thành một. Sơn nhẹ nhàng buông đàn. Đôi mắt mơ màng sau đôi kính cận.
Nhưng có một lần Sơn hát hay nhất, xuất thần nhất, tôi không thể nào có dịp nghe lại lần thứ hai. Đó là đêm ở quán cà phê bi da Ngọc Trang. Chiều thứ bảy, sau chầu đãi cơm chiều mà phe Bạch Tín thua tơi bời hoa lá, hai chàng nhất định phục thù cho sáng mai một chầu ăn sáng, có cả phở lẫn cà phê. Tôi vẫn cứ chức trọng tài, hưởng sái. Mãi mê chơi, chúng tôi quên cả thời gian. Chín giờ điện cúp, mà vẫn chưa kết thúc trận final 50 điểm. Nài nỉ chủ quán thắp đèn cầy chơi tiếp. Hai chị em chủ quán đều tên Trang, nể vì mấy ông giáo nên cũng chiều lòng, đốt lên mấy ngọn đèn sáp. Xong, để mặc chúng tôi, hai chị em ôm đàn ngồi hát nho nhỏ trong một góc tối.
Đang đắc ý với điểm vừa thắng quá dễ dàng trong vị thế hai trái bi mắt kính, Tín chợt dừng lại, chống cơ, đột ngột lên tiếng:
- -i giời! Rõ là múa rìu qua mắt thợ! Đánh trống trước cửa nhà sấm. Hai em ơi! ông nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đang đứng lù lù một đống đây này, mà hai em lại hát "Diễm Xưa" với Diễm nay thì có chết không cơ chứ!
Hai chị em như chạm phải điện, bật đứng dậy, hấp tấp đua nhau nói:
- Thật hả? Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thật hả? Sao lâu nay chúng em không biết ?
Cũng Tín, cướp lời trước khi Sơn đáp:
- Ấy! Tại các em vô tình thôi! Ngày nào ông chẳng có mặt ở đây.
Cô chị phân bua:
- Mấy em chỉ nghe các bạn hát nhạc của ông Sơn, thấy hay thì bắt chước chớ có bao giờ biết mặt đâu. Không ngờ lại được hân hạnh gặp ở đây!
Tín gạ gẫm:
- Bây giờ các em có muốn nghe chính nhạc sĩ hát không nào?
- Dạ rất muốn, nhưng chỉ sợ ông Sơn không chịu!
Bạch đề nghị:
- Nếu muốn thì hai cô phải chịu hai điều kiện.
- Xin anh cho biết hai điều kiện gì? Một cô hỏi.
Bạch tiếp tục đưa đề nghị:
- Thứ nhất không tính tiền ván bi da này. Thứ hai đãi một chầu cà phê đặc biệt. Chịu không?
Hai cô cười rất tươi:
- Vâng được ạ! Tưởng gì khó khăn chứ hai điều ấy đối với chúng em rất dễ dàng .
Thế là chúng tôi đi rửa tay, vào bàn ngồi chờ cà phê. Tâm mập cứ tủm tỉm cười một mình. Hai chị em cô Trang hình như xuýt xoát tuổi nhau. Dáng người dong dõng, chân dài. Không đẹp nhưng rất có duyên, ưa nhìn. Khi hai cô chuẩn bị ly, tách để pha cà phê chúng tôi mới có dịp ngắm kỹ hơn. Cô chị có mái tóc dài óng ả, buông lơi xuống tận lưng. Hai bàn tay trắng mịn màng. Những ngón tay búp măng thuôn dài. Cô em kiểu tóc ngắn Demi Garcon, dáng trẻ trung, khỏe mạnh. Khi những giọt cà phê bắt đầu rơi xuống, hai chị em vào bàn chung với chúng tôi. Bạch hối:
- Đem đàn ra cho nhạc sĩ chớ!
Hai chị em mới sực nhớ ra cây đàn vẫn còn dựng trong góc quầy. Cô em nhanh nhẹn vào lấy đàn đưa cho Sơn và nói:
- Mời nhạc sĩ!
Bây giờ Tâm mới mở miệng:
- Đừng gọi nhạc sĩ! Anh ấy mắc cỡ. Các em hãy gọi là anh Sơn cho thân.
Quay sang chúng tôi, anh nháy mắt:
- Phải không các ông ?
- Phải! Phải! Đúng vậy! Chúng tôi nhao nhao biểu đồng tình.
Sơn lặng lẽ so dây dàn. Tín gây không khí:
- Ông Sơn nói với các em gái vài tiếng chứ! Các em đang chờ đấy!
- Vâng! Phải đấy ạ! Chúng em đang chờ! Nhưng mời các anh dùng cà phê trước đã.
Sơn nói nhỏ nhẹ:
- Cám ơn các cô! Cám ơn thịnh tình các cô dành cho tôi!
Sơn gốc Huế, nhưng ít khi nói "mô, tê, răng, rứa" với chúng tôi. Nhất là không bao giờ "tau, mi" như những anh "trọ trẹ" khác. Sơn nói tiếng Bắc chuẩn, nhẹ, không nặng trịch như những ông Bắc xưng là dân "Hà Lội" chính cống.
Cô Trang chị náo nức:
- Anh Sơn bắt đầu đi! Cho chúng em thưởng thức đi!
Bạch đế thêm:
- Phải! Ông cho các em thưởng thức đi!
Cô Trang em, nguýt một cái dài đuôi con mắt, ngụ ý hiểu câu nói hai nghĩa của Bạch. Sơn hắng giọng. Bắt đầu dạo đàn. Tiếng đàn theo giai điệu Blue, nhẹ nhàng, rơi từng tiếng một. Sơn hát bản "Ướt mi" đầu tiên. Vừa dứt, tiếng vỗ tay nho nhỏ của hai cô (đêm khuya không dám vỗ lớn) vang lên ròn rã kèm theo những tiếng xuýt xoa:
- Hay quá! Hay quá! Hát thêm bài nữa đi anh Sơn!
Sơn hát tiếp bài "Thương một người". Rồi trong lúc cao hứng, anh hát luôn hai bài nữa là "Dấu chân địa đàng" và "Diễm xưa". Trong lúc say sưa hát, mắt Sơn nhìn vào khoảng không, thả hồn vào lời ca tiếng nhạc. Chúng tôi cũng say sưa lắng nghe. Trong lúc xuất thần, hình như Sơn quên hết sự vật quanh mình, chỉ còn có âm thanh. Trong cái tĩnh mịch về khuya, dưới ánh sáng lung linh của những ngọn bạch lạp, bóng người chập chờn trên vách, tiếng hát Sơn vang lên, lúc bổng cao, lúc chùng xuống, lúc kể lể, thở than, khiến chúng tôi lịm đi trong ngất ngây cảm xúc. Chúng tôi đã từng nghe Sơn hát nhiều lần, nhưng đây là lần Sơn hát hay nhất. Phải chăng là do cái không khí huyền ảo đêm đó cộng với sự có mặt của hai giai nhân đã làm cho tiếng hát Sơn trở nên tuyệt vời?
Trên đường về, Tín xóa bàn:
- Hôm nay ông Sơn sướng nhé! Được một lúc hai em chiều chuộng, bốc lên tận mây xanh. Sướng nhé! Này, hai ván bi hồi chiều kể như huề nhé!
Tâm phản đối :
- Ý! Đâu được. Tốn cả lít mồ hôi mới thắng được mấy cha, bây giờ xóa bàn đâu có được!
Bạch chen vào cãi:
- Thì lúc nãy ông uống cà phê chùa rồi. Công tôi với ông Tín gạ hai em, ông đâu có góp tiếng nào. Ông cứ ngồi cười tình, thấy ngứa mắt chết mẹ!
Quay sang tôi, Bạch kiếm đồng minh:
- Phải không ông trọng tài?
Phải!!! Lần này tôi được quyền phân xử một cách công minh, chính trực, không phải hổ thẹn với lương tâm. Bởi tôi cũng đã uống ké cà phê chùa và nghe hát miễn phí. Tôi dõng dạc tuyên bố:
- Ông Tín, ông Bạch đúng. Trên nguyên tắc, phe Tâm Sơn thắng. Trên thực tế, phe Tín Bạch đã trả nợ xong. Đêm nay huề. Ngày mai bắt đầu lại từ đầu.
Sơn không tranh cải, vừa đi vừa huýt sáo. Sơn đang vui.
Uy Vũ Bất Năng Khuất!
Cứ mỗi đầu tháng, sáng thứ hai tuần lễ đầu tiên, toàn thể quân, cán, chính trong Tỉnh đều tề tựu đông đủ tại Hội trường Nông-Lâm-Súc để họp hội nghị, gọi là "Hội thuyết giáo khoa" (?). Mục đích là để nhân viên, cán bộ các ban, ngành có dịp gặp gỡ, trao đổi và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, dưới quyền chủ tọa của Đại tá Bách, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Lâm Đồng.
Lần nào cũng như lần nào. Buổi hội thảo cứ đều đặn, lập đi lập lại một cách máy móc. Các trưởng ty lần lượt lên bục đọc báo cáo thành quả của Ty mình. Vỗ tay. Nêu ý kiến thắc mắc, giải đáp. Không ý kiến. Thông qua. Cứ như vậy, hết Ty này đến Ty khác. Trong lúc các ông Trưởng ty áo vest, cà vạt lên sân khấu trịnh trọng đọc báo cáo, thì cái đám nhân viên ngồi dưới đâu có để tâm lắng tai nghe những lời vàng ngọc mà vận dụng hết nhãn quan để liếc dọc, nhìn xuôi kiếm tìm người đẹp. Bên phía giáo dục rọi đèn pha qua đám nữ thư ký hành chánh. Ngược lại đám nhân viên tòa Tỉnh chiếu hồ quang qua đám mỹ nhân giáo chức. Người ta không thể nghe được những gì các ông thầm thì với nhau. Nhưng cứ nhìn cái cung cách những cái đầu của các ông chụm lại, rồi ngước lên, miệng cười nham nhở, người ta cũng đoán biết được 99% những gì trong đầu các ông vừa trao đổi. Còn các bà, các cô thì sao? Đây là cơ hội cho quí bà, quí cô tha hồ dùng thì giờ hành chánh đan aó len thoải mái. Bà nào cũng lôi trong giỏ xách ra một cuộn len và đôi que đan. Mắt thì nhìn lên sân khấu ra vẻ rất chăm chú theo dõi lời vàng, tiếng ngọc của thuyết trình viên. Nhưng hai tay thì đan lia lịa. Hai que đan lên xuống nhanh như cái máy. Nhờ vậy thời gian mới trôi qua mau.
Nghỉ giải lao. Họp tiếp. Tỉnh trưởng ban chỉ thị. Ban tổ chức ngõ lời cảm tạ. Buổi hội thuyết thành công mỹ mãn. Tiếng vỗ tay rần rần. Ai nấy đều cố tạo vẻ hả hê, tỏ ra mình vừa mới được học hỏi thêm nhiều điều mới lạ, hửu ích. Hân hoan ra về.
Có điều bên cánh giáo dục rất bực bội cho là luôn bị chèn ép, ăn hiếp. Chẳng là, cứ nửa buổi nghỉ giải lao, lại có màn văn nghệ giúp vui. Thành phần giúp vui luôn "ưu aí" cho Ty giáo dục. Tội nghiệp cho các cô cứ phải lên hát, múa làm trò...
Cái này thành lệ lâu lắm rồi, từ thời ông Trương Cảnh Ngôn làm Ty trưởng. Lý do được nêu ra để đùn việc là bên giáo dục đông nhân viên, nhất là nữ. Nhân tài nhiều gồm đủ cả thơ, nhạc, văn nghệ, văn gừng... Đến đời ông Lê Cao Lợi phải è cổ ra gánh tiếp, đâu có lý do gì từ chối. Mà đó là chuyện nhỏ nhặt, cãi lại, mích lòng ông Tỉnh trưởng có mà dại! Cái đám giáo học bổ túc chúng tôi nhất định không tham gia ba cái vụ đó. Mặc dầu ông Lợi có kêu gọi tăng cường nhân sự cho chương trình thêm mới lạ và hấp dẫn. Mấy tháng sau khi chúng tôi được đổi tới, bữa "Hội thuyết giáo khoa", gần đến giờ văn nghệ giải lao, ông Tỉnh trưởng gọi ông Lợi đến kề tai nói nhỏ điều gì, thấy ông Lợi gật đầu lia liạ. Ông Lợi đi thẳng đến đám chúng tôi, đến trước mặt Trịnh công Sơn. Sơn đang phì phà ống vố. Ông Lợi có vẻ hân hoan:
- Này anh Sơn! Ông Tỉnh trưởng nghe tiếng anh, ông rất hâm mộ. Ông nhờ tôi yêu cầu anh lên giúp vui vài tiết mục. Tôi nhận lời rồi. Hân hạnh lắm nhé!
Bất ngờ Sơn lắc đầu:
- Xin ông vui lòng nói lại với ông Tỉnh trưởng, tôi rất cám ơn nhã ý của ông ấy, nhưng tôi không thể làm được.
Ông Lợi chưng hửng. Khựng lại vài giây, ông nài nĩ:
- Anh Sơn, anh ráng giúp tôi lần này thôi. Tôi lỡ hứa rồi, nếu không, tôi mất mặt với ông ấy.
Sơn vẫn nhũn nhặn từ chối. Bất đắc dĩ, ông Lợi phải tới trả lời cho ngài Tỉnh trưởng sự từ chối của Sơn. Một thoáng cau mày, ông cho gọi ông Trần Thiện Hải, trưởng phòng hành chánh (thân phụ nhạc sĩ Trần thiện Thanh) chỉ thị đi mời lẫn nữa. Hai ông cùng đến chỗ Sơn ngồi, khẩn khoản hết lời nhưng Sơn vẫn nhất quyết từ chối. Không khí Hội trường đột nhiên căng thẳng. Mọi con mắt đều đổ dồn về phía chúng tôi, hiện rõ nét chờ đợi và lo âu. Chúng tôi đâm ra chột dạ lo ngại cho Sơn. Ở một tỉnh lẻ, Tỉnh trưởng là vua một cõi. Ai dám trái ý, trái lệnh? Có mà từ chết đến bị thương! Hồi lâu, hai ông không thuyết phục được Sơn, đành phải đến trình lại với Tỉnh trưởng. Đại tá Bách khoát tay ra lệnh cho buổi hội thảo tiếp tục. Từ lúc đó, không khí hội trường trở nên nặng nề cho đến lúc kết thúc.
Buổi trưa, tiếp theo buổi chiều, chúng tôi đặc biệt chiêu đãi Sơn "ê hề, linh đình". Tại nhà hàng Ngọc Hương, bia Tây cà lồ ngã nghiêng, lăn lóc. Thịt bò lúc lắc, tái chanh, dĩa nào bưng ra cũng hết sạch. Chúng tôi sung sướng, cười nói hả hê. Chúng tôi tung hê Sơn như một kẻ thắng trận anh dũng. Sơn đã gột bỏ dùm chúng tôi mặc cảm bị ăn hiếp chất chứa bấy lâu trong lòng.
Bạch phát biểu:
- Ông Sơn ngon! Tôi phục ông! "Dô" với tôi một cái "chăm phần chăm" đi ông!
Tín cười hềnh hệch khoe khoang:
- Đã bảo mà! Tín này mà lăng xê ai thì phải biết! Mấy cụ chưa biết cái vụ hai em bé cà phê Ngọc Trang mê tít thò lò ông Sơn nhà mình đâu nhá. Cũng một tay Tín này đấy! Nào chúng ta cùng với ông Sơn "vít đê" (*) cối này nhé !
Mọi người đồng hưởng ứng:
- Dô...dô... Tín ngữa cổ, tu một hơi hết sạch ly cối bia đầy tràn. Sơn cũng rất vui vẻ. Hết ly này đến ly khác. Lúc cụng người này, lúc cụng người kia. Ly nào cũng trăm phần trăm. Anh càng uống mặt càng tái, càng tỉnh. Ông trùm Lãng cẩn thận, cảnh giác, vẫn giọng hơi cà:
- Này! này! Tôi lưu ý mấy ông nhé! Đặc... đặc biệt là ông Sơn! Nó sẽ tìm cách trả thù mình đấy!
Nghị, tính cộc, nóng nảy:
- Sợ đếch gì! Nó làm chó gì mình? Không dạy chỗ này thì dạy chỗ khác! Nó sa thải mình được à?
Lãng vẫn dè chừng:
- Ừ! Rồi mấy ông chờ xem! Tớ ở đây đã bảy năm rồi. Hồi đó, tớ đâu có mang theo cái tủ lạnh này (sốt rét). Tại tớ bướng, nó đày tớ vào vào trong núi năm năm đấy.
Chúng tôi nghe nói cũng giật mình lo cho Sơn trong những ngày sắp tới. Nhưng đại tá Bách đã không làm điều đó. Sơn vẫn vô sự. Cả ông Lê Cao Lợi cũng không làm điều đó, mặc dù Sơn đã làm ông mất mặt lòng tự ái của ông bị tổn thương nặng. Sau này, Sơn còn lạm dụng lòng tốt của ông, bỏ mặc trường lớp, học trò cho ông già Thống, lên Đà Lạt ở cả tháng trời. Sẽ kể ở đoạn sau. Riêng tôi, với thái độ
Sơn làm sáng nay, tôi cho đó là một hành động can đảm, khí tiết của một nhà giáo, ít ai làm được hoặc dám làm, kể cả tôi, nếu lâm vào trường hợp đó.
Tôi thật sự khâm phục Sơn và hiểu được thế nào là ý nghĩa của câu "uy vũ bất năng khuất".
(*) Vider: Tiếng Pháp, làm cạn
Xuất Xứ Vài Nhạc Phẩm "Những Mối Tình" "Một Thoáng Mây Bay"
Ngoài những nhạc phẩm như "Biển Nhớ", "Nhìn Những Mùa Thu Đi", "Dã Tràng Ca..." Sơn sáng tác ở Qui Nhơn năm 62-64, "Chiều Một Mình Qua Phố", "Lời Buồn Thánh", "Vết Lăn Trầm" ... Sơn sáng tác tại Bảo Lộc, tôi biết rõ thời gian và hoàn cảnh tạo nên, tôi còn được biết thêm xuất xứ một vài nhạc phẩm khá hay liên quan đến những mối tình mà anh gọi là "Một Thoáng Mây Bay" do anh kể lại. Những chuyện này được kể nay một ít, mai một ít, trong những ngày mưa gió ủ ê, sụt sùi, dai dẳng. Hai anh em chúng tôi đem đàn sáo ra hòa điệu. Rồi cũng chán. Lại cà phê thuốc lá. Khói thuốc mù trời, mờ khung cửa sổ. Thường tôi khơi mào:
- Buồn qua! Kể chuyện nghe chơi ông Sơn!
Tôi thích nghe Sơn kể chuyện. Anh kể chuyện có duyên và hấp dẫn. Bất cứ chuyện gì qua Sơn kể đều trở nên hay và dí dõm. Anh vừa nói vừa ra điệu bộ làm cho câu chuyện sống động và lôi cuốn người nghe từ đầu đến cuối. Như chuyện anh Tây già bụng bự chẳng hạn. Tôi mà kể chắc vô duyên và lạt nhách. Nhưng nhìn Sơn vụt đứng dậy, lui một bước, hai tay đấm vào nhau, miệng nói "Hay...xì" rồi trở về chỗ ngồi cũ, mặt tỉnh bơ, không một nhếch mép, chúng tôi cười bò lăn. Khi mọi người dứt cười, anh mới cười.
Từ "Ướt Mi" Đến "Thương Một Người"và Ca Sĩ Thanh Thúy
Thuở còn trọ học ở Sài Gòn, năm đó tôi mười bảy tuổi -Sơn kể- đêm nào tôi cũng lò dò đến phòng trà ca nhạc để nghe Thanh Thúy hát. Dần dần hình bóng Thanh Thúy đã ăn sâu vào trong tôi lúc nào không biết. Nói yêu Thanh Thúy thì cũng chưa hẵn. Vì tôi nhỏ tuổi hơn, lại nhiều mặc cảm nghèo và vô danh. Trong khi đó Thanh Thúy là một ca sĩ đang lên, kẻ đón người đưa tấp nập. Biết vậy, nhưng tôi không thể không đêm nào thiếu hình ảnh và tiếng hát của nàng. Có đêm tôi chỉ đủ tiền để mua một ly nước chanh. Đêm đêm tôi thao thức với những khát khao, mơ ước là phải làm một cái gì đó để tỏ cho Thanh Thúy biết là tôi đang rất ngưỡng mộ nàng. Cái khát vọng đó đã giúp tôi viết nên bản nhạc "Ướt Mi" đầu tiên trong đời. Khi hoàn thành, tôi nắn nót chép lại thật kỹ càng và luôn mang theo bên mình chờ có dịp tặng nàng. Với sự nhút nhát của tuổi trẻ, tôi không dám đưa tặng ngay mà phải chờ khá lâu mới có cơ hội. Một hôm tôi đánh bạo, tìm một chỗ sát bục sân khấu, dự định khi nàng vừa dứt tiếng hát là tôi sẽ đứng lên đưa luôn. Đã mấy lần định làm vẫn không kịp. Nàng vừa cúi đầu chào khán thính giả là đã có người chực sẵn rước đi ngay. Cái đêm định mệnh mà tôi quyết tâm an bài đã thành công. Khi cầm bản nhạc trong tay, nghe mấy lời lí nhí của tôi, nàng chỉ thoáng nhìn tôi một chút rồi quay gót về hậu trường. Đêm đó tôi nôn nao không ngủ được. Trong lòng nổi dậy biết bao là mộng mơ, thắc mắc. Những câu hỏi cứ hiện ra trong đầu, nhưng tôi không dám trả lời dễ dàng cho mình thỏa mãn. Nhưng câu hỏi cứ trở đi, trở lại trong tôi là: - Liệu nàng có để ý gì đến bản nhạc mà tôi đã thao thức bao đêm để làm nên vì nàng không? Hay nàng chỉ khách sáo cầm hờ rồi vứt bỏ nó ở đâu đó! Vứt đi! Tim tôi đau nhói khi nghĩ đến hai chữ ấy.
Suốt gần một tuần, tôi hồi hộp theo dõi nàng mỗi đêm, đón từng ánh mắt nàng nhìn xuống khán giả thử xem nàng có dừng lại nơi tôi không, để tôi hy vọng. Nhưng không, vẫn như mọi lần. Một cái nhìn chung để gây cảm tình chung. Mãi đến hai tuần sau, khi tôi sắp tuyệt vọng vì mõi mòn chờ đợi thì một đêm kia, khi bước lên bục diễn, dàn nhạc dạo khúc mở đầu thì nàng ra dấu cho ban nhạc tạm im tiếng cho nàng nói vài lời.
- Thưa quí vị! - Nàng bắt đầu nói và tôi hồi hộp chờ đợi.- Đêm nay Thúy sẽ trình bày một tác phẩm mới của một nhạc sĩ rất lạ, tặng cho Thúy. Đó là nhạc phẩm "Ướt Mi" của tác giả Trịnh Công Sơn. Hy vọng rằng đêm nay sẽ có sự hiện diện của tác giả để Thúy được nói vài lời cám ơn.
Nói xong, nàng quay sang ban nhạc, đưa bản nhạc của tôi cho họ dạo nhạc bắt đầu. Nàng cất tiếng hát. Tôi run lên trong lòng vì sung sướng và xúc động. Khi dứt tiếng hát, nàng dừng lại khá lâu, có ý chờ người tặng nhạc. Tôi thu hết can đảm, bước tới bục, ngước lên và nói:
- Xin cám ơn Thanh Thúy đã hát bài nhạc của tôi.
Nàng a lên một tiếng ra vẽ bất ngờ rồi nói tiếp:
- Thúy rất cám ơn anh đã tặng cho bản nhạc. Thúy muốn nói chuyện riêng với anh được không?
Tôi luống cuống gật đầu. Lúc ấy tôi sung sướng quá, hạnh phúc quá nên không tìm ra được lời nào để đáp lại. Tôi cùng nàng đón taxi về nhà nàng. Nhà nàng ở sâu trong một ngõ hẽm. Căn nhà khang trang, đầy đủ tiện nghi: tủ lạnh, quạt máy. Mọi vật dụng trong nhà đều sang trọng, đắt tiền. Tối hôm ấy nàng cùng tôi nói đủ thứ chuyện. Tôi không còn nhớ chuyện gì ra chuyện gì. Tôi kể cho nàng nghe hoàn cảnh của tôi từ Huế vào trọ học. Nàng kể cho tôi nghe cuộc đời nàng từ Phan Thiết lớn lên... Sau cùng nàng đề nghị tôi dọn về ở chung, nàng sẽ giúp tôi ăn học. Tôi sung sướng nhận lời. Bắt đầu từ đó, tôi ở hẵn nhà nàng và chú tâm học hành không phải lo sinh kế nữa. (Sơn không kể trước đó đã làm nghề gì có tiền ăn học). Thời gian sau tôi sáng tác thêm một bản nữa để tặng nàng và kín đáo bày tỏ cảm tình của mình. Đó là bản "Thương Một Người".
Đến đây tôi sốt ruột, dục:
- Theo ông kể nãy giờ thì tôi đoán nhanh rằng, ông với bà Thúy sẽ rất hạnh phúc với mối tình lãng mạn đầy thơ mộng với một bầy nhóc con, chớ đâu phải đêm đêm nằm đây với tôi nghe ếch, nhái, ễnh ương kêu!
Giọng Sơn vẫn trầm trầm, đều đều:
- Ông đừng sốt ruột đoán mò. Sắp đến đoạn chót rồi! Trong thời gian ở đó -Sơn tiếp- tôi nhận ra rằng Thúy đã ân cần giúp đỡ tôi chỉ bằng sự tốt bụng và thương hại mà thôi. Tôi muốn từ bỏ, ra đi nhưng chưa có dịp. Nàng bận rộn suốt ngày. Hết người này đến tập hát, người nọ mời đi nhà hàng. Toàn những ông tai to mặt lớn. Rất ít khi nàng ở nhà lâu vài tiếng đồng hồ. Một hôm, vừa về đến nhà, nàng rất vui vẻ nói với tôi:
- Sơn nè! Tuần tới có buổi dạ vũ lớn lắm do ông X tổ chức, sẽ có đầy đủ các ông các bà có thế lực lớn tham dự. Thúy có được một vé cho Sơn đây. Ngày đó đi với Thúy cho vui nhé!
Tôi phân vân, lo lắng cho Thúy biết là tôi không có bộ đồ nào coi được để mặc đi bên cạnh nàng. Thúy cười ngất và bảo tôi đừng lo. Nàng dẫn tôi ra hiệu may đặt cho tôi một bộ "Smoking". Đến ngày thử áo tôi suy nghĩ nhiều: Có nên dự hay không? Tôi có nên tiếp tục ở đây nữa hay không? Khi đem bộ Smoking về để trên giường, tôi ngắm nhìn nó và lòng đã quyết định: Phải ra đi! Năm gìờ chiều hôm đó, tôi viết một bức thư ngắn cám ơn Thúy đã dành cho tôi sự ưu ái, giúp đỡ trong thời gian qua. Cài bức thư trên bộ áo, tôi xách va li ra xích lô, giã từ căn nhà của Thúy, không bao giờ quay trở lại nữa.
Sơn rít một hơi dài ống vố, ngữa mặt lên trần nhà từ từ nhả khói, chấm dứt câu chuyện. Tôi nghe tiếng ống vố gõ nhè nhẹ xuống mặt bàn cọc...cọc...cọc...đều đều, buồn như tiếng thạch sùng tắc lưỡi trong đêm.
Ca Sĩ Kim Vui "Người Mẫu Có Hàm Răng Đẹp Quảng Cáo Hãng Kem Đánh Răng "Leyna" Kem Trắng Chỉ Hồng
Sơn không chịu kể gì về mối liên hệ giữa mình với cô ca sĩ Kim Vui. Gặng hỏi, cũng chỉ cười và nói - Bạn thôi- Tôi không tin. Tôi nghĩ là Sơn không muốn tiết lộ vì một lý do nào đó.
Trước Giáng Sinh năm 1964 mấy ngày, Sơn nhận được một gói quà khá lớn từ Sài Gòn gửi lên qua đường bưu điện. Tình cờ hôm đó chúng tôi có mặt đông đủ để bàn về các tiết mục vui chơi trong những ngày Noel sắp tới. Khi Sơn ôm gói quà quà về, nét mặt vui vẻ lắm. Chúng tôi tò mò muốn coi thử cái gì bên trong và do ai gửi nên hối Sơn mau mau mở ra xem.
Gói quà được bao bọc cẩn thận nhiều lớp giấy bên ngoài. Lớp trong cùng là một hộp bằng "cạc tông" bọc giấy hoa. Ở chéo góc phải có thắt một cái nơ màu đỏ. Trên mặt hộp viết hàng chữ "Thân gửi anh Sơn" phía dưới là hai chữ "Kim Vui". Chúng tôi ồ lên một lượt: Kim Vui! Có phải Kim Vui là cô ca sĩ có hàm răng trắng, đẹp làm mẫu quảng cáo cho hãng kem đánh răng "Leyna" kem trắng, chỉ hồng đó không? Sơn gật đầu xác nhận. Sơn bắt đầu lấy dao rọc giấy, cẩn thận rọc tờ giấy hoa, bên trong lộ ra một hộp màu nhủ vàng, to cở cuốn vở học trò, dày hơn hai lóng tay. Sơn dừng lại, ngắm nghía. Xoay dọc, xoay ngang, ý chừng đang đoán thử cái gì bên trong. Tín sốt ruột, dục:
- Mở mẹ nó ra xem thì biết ngay nó là cái gì! Oản tù tì ra cái gì ra cái này cho xong! Ỡm ờ mãi! Gớm!
Đạo cản lại:
- Ơ! Hay nhỉ! Cái ông Tín nhà này hay nhỉ! Của người ta mà ông làm như của ông không bằng!
Tín trả đủa tức khắc:
- Lại cái ông Đạo Sữa rồi! Sao ông cứ hay lái xe rác vào mồm em thế!
Nói xong, Tín cười hăng hắc. Cuối cùng thì cái hộp cũng được mở ra. Đó là một hộp "sô cô la". Từng thỏi, từng thỏi màu nâu đậm, thơm ngát nằm ngay ngắn trên lớp xốp mềm, trắng tinh, khêu gợi và kích thích. Tín vỗ tay, giả giọng Bắc ngọng:
- Hay quá! Thế nà "Lô En" lày chúng em có "Sô cô na" ăn dzồi!!!
Bạch góp ý đề nghị:
- Ông Sơn! Chia mỗi người một miếng, ăn và uống với nước trà Đỗ Hữu ướp sói là số dzách!
Sơn gạt phăng:
- Thôi mấy cha! Không có ăn uống gì hết. Tôi cất làm kỷ niệm! Cha nào đụng vô là tôi quyết bảo vệ như bảo vệ Phật pháp đó nghe!
Nghe Sơn nói, anh nào cũng tiu nghĩu, cụt hứng. Sơn đã nói thật và làm thật. Anh nâng niu chiếc hộp một cách trìu mến và đem nó cất vào chiếc vali da. Mỗi tối anh lại đem nó ra ngắm nghía. Ngoài hộp bánh ra, không một phong thư, không một dòng chữ nào thêm, ngoài mấy chữ "Thân gửi anh Sơn". Nhìn cách anh trân trọng nó, chắc chắn nó phải chứa đựng một tâm tình sâu đậm, thắm thiết lắm mà cô ca sĩ Kim Vui đã kín đáo gói trong đó.
Qua Tết Nguyên Đán, hộp sô cô la đã lên mốc xanh. Sơn xuýt xoa, tiếc lắm. Lấy giấy bổi lau hết mốc rồi đem cất lại. Một tuần nữa, mốc tràn ra cả ngoài hộp. Sơn sợ lây lan sang quần áo nên đành đem bỏ.
Mãi về sau, nhiều lần tôi cố gạ gẫm Sơn để biết thêm đôi chút chuyện tình bí ẩn, nhưng Sơn vẫn không hé nửa lời.
Diễm của Diễm Xưa
Hai chị em, Dao Ánh và Bích Diễm. Sơn bắt đầu câu chuyện. Hai chị em đều đẹp và quí phái. Tôi theo cô Diễm. Mối tình học trò, có lẽ đơn phương, kéo dài từ khi tôi còn ở Huế cho đến lúc vào Sài Gòn trọ học. Cha mẹ Diễm khó và không thích tôi. Nhưng tôi vẫn cứ đeo đuổi hình bóng của Diễm, bởi Diễm cũng chưa có biểu hiện nào xa lánh tôi và cũng không có lời lẽ cự tuyệt. Năm đó tôi thi trượt Bac II. Diễm đậu và vào Sài Gòn để vào đại học Văn Khoa. Còn tôi thì về lại Huế, bỏ ngang việc học vì gia đình đang lâm cảnh sa sút. Phần buồn, phần tự ái, tôi không còn tìm cách liên lạc với Diễm nữa. Có lẽ vì vậy mà Diễm cũng lơ luôn. Diễm đâu biết rằng trong thời gian này tôi đau khổ nhất. Tôi đã cố nén mọi khổ đau trong im lặng. Sự khổ đau và nhớ nhung dày vò tôi từng đêm, tôi đã phải viết nên bài "Diễm Xưa" để trút bớt nỗi khổ đau trong lòng. Nhưng có điều lạ là khi tôi viết xong bản nhạc này, tôi lại thấy lòng mình thanh thản, nhẹ nhàng. Tôi cảm thấy vơi đi rất nhiều nỗi nhớ và tình yêu. Trong lòng tôi bấy giờ chỉ còn một chút tình mong manh như sương, như khói. Nó không còn nồng nàn, mãnh liệt nhu trước kia. Một dịp tôi vào Sài Gòn, tìm đến cư xá nơi Diễm đang nội trú với ý định tặng nàng bản nhạc để làm kỷ niệm một thời tuổi trẻ, rồi thôi. Nhưng không gặp được Diễm. Tôi nhờ mấy cô bạn gái đang đứng ngoài cổng trao lại dùm. Khi tôi quay lưng đi được một quãng thì nghe tiếng Diễm từ trên "ban công" gọi theo:
- Anh Sơn! Anh Sơn! Anh Sơn ơi!
Nhưng tôi không ngoái lại. Tôi cắm đầu đi thẳng. Tiếng gọi tên tôi vẫn còn văng vẳng sau lưng. Từ ấy đến nay, tôi tự nhủ lòng, sẽ không bao giờ tìm gặp lại Diễm nữa.
* Những chuyện nầy do Sơn kể lại, tôi không rõ sự thực mấy mươi phần trăm. Hy vọng những nhân vật còn sống sẽ bổ túc thêm.
Tôn Nữ Bích Khê và "Biển Nhớ"
Nhóm học sinh NhaTrang khăn gói ra Qui Nhơn học Sư phạm vào khoảng mười mấy người. Trong đó có cô Tôn nữ Bích Khê. Bích Khê còn hai người em gái nữa: Thuần Khê và Cẩm Khê. Bích Khê người dáng người nhỏ, tròn lẵn, nước da ngăm ngăm như màu da của Sơn. Khê thường đánh tóc rối, búi thành một búi ngược ra sau đỉnh đầu. Mang guốc cao gót hiệu Dakao, đi chân sáo. Đứng xa nhìn dáng Bích Khê đi trông giống như con sáo nhỏ đang nhảy nhót trong sân. Cái búi tóc nhảy tưng tưng theo nhịp bước nhún nhảy, người ta có cảm tưởng một lúc nào đó nó sẽ kéo người chủ té ngữa ra sau. Bích Khê không đẹp. Nhưng có duyên. Càng nhìn lâu càng quyến rũ. Bích Khê cũng là một trong ba mươi người trong ban hợp xướng. Trong thời gian tập văn nghệ, Sơn đều vui vẻ, thân ái với mọi người. Mặc dù học chung hai năm, nhưng tôi không biết rõ chuyện tình cảm giữa Sơn và Khê bằng ông Đinh Cường. Hầu như ngày nào cũng có rất nhiều cô đến nhà trọ của Sơn. Sau khi bài "Biển Nhớ" được sáng tác và đưa vào chương trình tập dượt thì giáo sinh mới để ý tới Bích Khê vì câu "trời cao níu bước sơn khê". Bàn tán là vì không biết Sơn vô tình hay dụng ý ghép hai tên Sơn và Khê vào trong để nói lên tình cảm của mình?
Bản "Nhìn Những Mùa Thu Đi" cũng trong trường hợp tương tự. Trong lớp tôi đã có ba Thu rồi. Các lớp khác chí ít cũng có một hay hai Thu nữa. Nếu cứ suy luận kiểu của ông Đinh Cường thì không biết Thu nào đã yêu Sơn và ngược lại.
Mãn khóa, chia tay. Bận rộn, không ai có thì giờ để ý đến ai. Chăm chú, hồi hộp đợi danh sách bổ nhiệm, xem cuộc đời đưa đẩy số phận mình tới phương trời nào. Lúc chung sống với Sơn, có lần tôi hỏi Sơn về chuyện Bích Khê như anh em đã đồn đoán. Sơn cười và cho biết giữa Sơn và Khê cũng như các bạn gái khác chỉ là tình bạn học và văn nghệ. Chữ sơn khê chỉ là sự ngẫu nhiên trùng hợp.
Khánh Ly với Tình Ca Trịnh Công Sơn
Đầu năm 1965, Việt Cộng gia tăng áp lực quân sự, quyết cắt đứt trục lộ giao thông Sài Gòn Đà Lạt. Đoạn đường từ Định Quán đến đèo Madagui thường xuyên bị đắp mô. Việt Cộng làm chủ đoạn đường đó từ 5 giờ chiều đến 8 giờ sáng hôm sau. Khi sương mù tan dần, đoàn xe Command-Car của Tiểu khu Lâm Đồng chầm chậm đi mở đường và phá mô thì đoàn xe khách cũng từ từ nối đuôi theo. Đoạn đường ngắn chừng vài chục cây số mà muốn vượt qua phải mất hơn bốn tiếng đồng hồ. Sở dĩ Việt Cộng chọn khúc đường này để quấy phá liên tục là vì địa thế hiểm trở của nó. Đường lên đèo, xuống dốc, quanh co rất ngặt, nằm theo triền núi, một bên là vách đá dựng, một bên là vực sâu. Chung quanh là rừng nứa, tre, lồ ồ bạt ngàn, che phủ mịt mùng. Sương mù từng đám dầy đặc là là sát mặt đất suốt ngày, nắng cũng như mưa. Cách nhau một trăm thước, xe sau không thể nhìn thấy xe trước. Máy bay thám sát L19 quần đảo trên đầu cũng không tài nào phát hiện được địa điểm Việt Cộng đang lùa dân vào rừng "học tập" bên dưới. Một lần từ Sài Gòn về, Trịnh công Sơn được Giải phóng quân "mời" vào "ổ" cùng hàng trăm hành khách khác để học tập chính sách và đường lối của mặt trận Giải Phóng Miền Nam. Đến tối mịt, hú vía, mấy "ổng" thả cho về. Sơn kể lại:
- Sợ muốn "teo bu gi" luôn! Đang lúc hàng chục chiếc xe nối đuôi nhau lên đèo, qua khỏi cái đèo này là coi như đã đến nhà, thình lình mấy "ổng" xuất hiện, ngoắc tay, ra hiệu cho xe ngừng lại. Mọi người trong xe đều kêu lên nho nhỏ:- Chết rồi! Việt Cộng chận đường rồi! Làm sao bây giờ? Người nọ hỏi người kia. Không có câu trả lời. Việt Cộng chỉ có sáu người. Họ đi dép râu, mũ tai bèo, mặc bà ba đen. Vai mang súng CKC hoặc Garant M1. Quanh thắt lưng đeo lũng lẵng mấy trái lựu đạn trông giống cái chày đâm tiêu. Người nào cũng ốm đói, nước da vàng ủng. Họ dẫn đám người đi quanh co dưới rừng nứa dầy bịt, âm u. Ánh mặt trời thỉnh thoảng loé vài tia, xoi thủng cái không gian đặc sệt im lặng và lạnh lẽo. Hơn nửa cây số, Sơn đoán chừng, tất cả dừng lại dưới một vòm cây đã được phát dọn hết các gốc tre nứa. Tất cả ngồi bệt xuống đất để nghe một người trong bọn họ giảng giải về chủ trương, chính sách MTGPMN. Đang thao thao nửa chừng, bỗng tên nọ dừng lại và săm săm đi thẳng đến tôi, đưa tay giật phăng cái mắt kiếng. Tôi điếng hồn nghĩ thầm, chắc mình có gì đặc biệt nên nó chú ý chăng! Nhưng sau đó, thấy ai mang kính cũng đều bị giật xuống hết, tôi mới hoàn hồn. Tên giảng bài nói - Khi đang học tập, các "đồng chí" không được phép đeo kiếng. Đeo kiếng là tỏ thái độ không nghiêm túc, coi thường các tài liệu và các nghị quyết trên đưa xuống, nhất là coi thường chính trị viên! - Không một ai dám ho he. -Thế là các "đồng chí" đã mau chóng tiếp thu các chính sách, đường lối cách mạng. Thế là tốt. Vẫn một mình hắn nói. Vừa hỏi, vừa trả lời. Tiếp tục, không cần cầm tài liệu, tên chính trị viên nói liên tục, thao thao như nước chảy, không ngưng nghỉ. Đám chúng tôi phần sợ, phần lạnh và đói run, lại còn lo âu vì tiếng máy bay quần trên đầu, lúc gần lúc xa, không biết nó dội bom lúc nào. Trong lúc tên này giảng thuyết thì những tên khác chia nhau đứng gác rãi rác chung quanh, súng chỉa lên trời chực bắn. Suốt hai tiếng đồng hồ lâu như hai năm, bài học mới chấm dứt. - Ta tạm nghỉ- Tên chính trị viên tuyên bố- Hẹn sẽ gặp lại các đồng chí một ngày gần đây. Thôi các đồng chí về nghỉ khỏe nhé!
Ra được đến đường lộ, leo lên xe, xe lăn bánh, cả tài xế lẫn hành khách mới hú hồn, thờ phào nhẹ nhõm. Bây giờ mọi người mới cảm thấy mót tiểu. Bác tài xế lên tiếng: - Tôi bị mấy lần rồi mà vẫn cứ muốn đái trong quần! Mấy ông, mấy bà lần đầu chắc phải sợ lắm phải không?- Một ông khách đáp giọng chán chường: - -i thời buổi này, trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết. Mình người dân, một cổ hai tròng. May mà mấy cha nội cho về chớ giữ chơi vài bữa, nữa tháng thì mình lại càng khổ với đám cảnh sát, an ninh quân đội phía quốc gia nữa. Tôi nghe đến đó giật mình. Sơn tiếp- Nếu tôi bị giữ trong đó thì coi như "lúa" rồi !
Từ đó, Sơn đổi tuyến đường Bảo Lộc - Sài Gòn thành Bảo Lộc-Đà Lạt. Từ Đà Lạt, Sơn tình cờ biết Khánh Ly. Và cũng từ Đà Lạt, Sơn dần dần được nhiều người biết tiếng hơn. Liên tục ba năm, Khánh Ly đã lăng xê nhạc Trịnh Công Sơn chùa trên Đài Phát Thanh Đà Lạt. Chồng Khánh Ly là quản đốc đài. Nhưng nhạc Trịnh Công Sơn và tiếng hát Khánh Ly chỉ được biết trong một môi trường nhỏ hẹp, đóng khung ở Đà Lạt mà thôi. Mãi đến năm 1967, nhờ thành phần sinh viên thiên tả ở Sài Gòn tổ chức đưa hai người về hát tại đây mới gây được tiếng vang và ảnh hưởng sâu rộng trong giới sinh viên, nhất là những tổ chức phản chiến do Huỳnh Tấn Mẫm cầm đầu.
Tuy Bảo Lộc-Đà Lạt rất gần, 72 Km, tôi nhiều lần ghé Đà Lạt du hí ít hôm trước khi về Nha Trang, tôi vẫn chưa một lần biết mặt
Khánh Ly. Lý do là tôi không thích chui vào mấy cái phòng trà hoặc vũ trường. Mấy nơi đó không hợp với khẩu vị của tôi. Uống cà phê nghe nhạc, tôi chỉ chọn có hai nơi là Cà phê Tùng và Cà phê Thủy Tạ. Nhưng tôi biết nhiều về Khánh Ly là nhờ mỗi lần từ Đà Lạt về, Sơn vui vẻ kể cho tôi nghe những ngày vui chơi ở đó. Dĩ nhiên, chỉ là những chuyện bình thường như đi ăn, đi nhảy, đi nghe nhạc uống cà phê hoặc những buổi đi lang thang bàn chuyện văn nghệ... kỳ dư những chuyện khác như nhiều người đồn đoán tôi không nghe Sơn kể.
Một lần, mới lên Đà Lạt có một hôm, Sơn hớt hãi chạy về, nét mặt còn hốt hoảng. Tôi hỏi :
- Chuyện gì vậy ông? Việt Cộng giật mìn sập cầu Đại Nga hả? (Cây cầu này gần Tùng Nghĩa ranh giới Tuyên Đức-Lâm Đồng)
- Sập cầu thì ai nói làm gì! Tôi suýt chết ông ạ!
- Ủa! Đoạn đường từ đây lên Đà Lạt có một tiểu đoàn Biệt Động Quân giữ an ninh mà Việt Cộng còn dám ra đón đường nữa sao?
- Không! Không phải là Việt Cộng! Để từ từ tôi kể cho ông nghe!
Sơn châm một điếu Bastos xanh, rít một hơi dài xong bắt đầu thong thả kể:
-Thường thường tôi lên trển, ở nhà người bạn (Có lẽ căn phòng Đinh Cường thuê để vẽ chăng? Không nghe Sơn nói đến). Đến tối mới cùng Khánh Ly, sau khi hát ở phòng trà ra, cùng nhau đi ăn, đi nhảy. Có lúc lang thang quanh bờ hồ nói chuyện trên trời dưới đất đến khuya mới chịu về. Khánh Ly có nếp sống phóng khoáng như Tây. Nhiều lần có những cử chỉ thân mật quá tôi cũng đâm ngại. Tôi có lần tỏ ý ấy thì Khánh Ly gạt ngang:
- Anh Sơn đừng ngại! Mai với chồng sống rất tự do, khoáng đạt. Anh ấy hiểu Mai mà! Không có gì đâu! Nghe thế tôi cũng yên tâm. Lâu dần không còn để ý nữa. Chồng Khánh Ly là Đại úy Quang, quản đốc đài phát thanh Đà Lạt. Nhờ Khánh Ly nói giúp nên đã "lăng xê" nhạc của tôi lên đài. Lần này, trước mặt chồng mà Khánh Ly quàng vai tôi, vừa kéo đi, vừa quay lại bảo chồng:
- Tối nay "moa" với Sơn đi chơi về nếu trễ, "toa" ở nhà trông con và đi ngủ, đừng đợi nhé!
Tối hôm đó đang nhảy, có người báo, chồng Khánh Ly xách súng tìm tôi. Hoảng quá, tôi vọt ngõ sau, đến nhà một người bạn khác ngủ. Sáng sớm ra lấy vé xe về đây gấp.
Sau lần "Vertigo" toát mồ hôi lạnh đó, Sơn nằm lì ở Bảo Lộc cả tháng không đi Sài Gòn và Đà Lạt nữa. Một hôm Sơn nhận được thư của Khánh Ly nhắn lên. Đọc thư xong, Sơn rất mừng và cho tôi biết mọi việc đã êm. Khánh Ly đã dàn xếp gia đình. Chồng Khánh Ly hiểu lầm mà thôi. Sơn lại tiếp tục lên Đà Lạt đóng đô dài dài. Nhưng dạo sau, mỗi lần đi chơi đều có mặt Quang, chồng Khánh Ly đi cùng.
Vẫn Ông Già Thống
Nếu cứ trưa thứ sáu Sơn "dọt", sáng thứ hai về thì cuộc đời rất phẳng lặng không có gì để nói. Đằng này Sơn không có thói quen đều đặn về giờ giấc. Thời gian của Sơn chậm lại, có khi trễ từ 24 tiếng đến 48 tiếng đồng hồ mỗi tuần là thường. Cứ mỗi lần trễ như vậy, tôi lại nghe tiếng xe gắn máy cũ kỹ của ông già Thống chạy xành xạch vô ngõ. Những bận như thế, sau khi ca cẩm, than thở một lúc, ông lại nhờ tôi nói hộ với thầy Sơn, đừng đi lâu quá, khổ cho thân già ông. Có lần tôi phát cáu, gắt lại ông:
- Bác Thống này! Bác nhờ tôi nói hộ. Tôi đã nói với ông Sơn y như lời bác. Cớ sao khi gặp ông Sơn bác lại bảo không có gì, chuyện nhỏ mà! Thầy có công việc cứ đi, để lớp tôi trông cho. Ông Sơn lại cự nự tôi cho tôi đặt chuyện.
Đang lúc bực, tôi tuôn một hơi dài. Nhưng khi nhìn cái miệng méo xệch bị trúng phong từ lâu thành tật của ông cố phân bua:
- Thầy nghĩ xem! Ông ấy là "sếp" của tôi mà! Khó cho tôi nói quá!
Lòng tôi lại chùng xuống, bất nhẫn với mình, và cảm thông cho ông.
Dạo gần nghỉ hè niên khóa 1965, Sơn ở luôn trên Đà Lạt hơn một tháng. Ông Thống kham hết nổi. Con ngựa già "đã mõi vó trên đồi quê hương" buộc lòng ông phải đến Ty báo cáo sự vắng mặt cuả ông sếp mình. Ông Lê Cao Lợi phải điện một công văn khẩn nhờ đài phát thanh Đà Lạt thông báo cho Sơn về nhiệm sở gấp. Hạn cho một tuần, kể từ ngày loan báo, nếu không trình diện coi như đào nhiệm. Hôm sau đã thấy Sơn lò dò về trình diện. Chắc chắn kỳ này Sơn sẽ lãnh cái búa tạ của ông Lợi giáng xuống do hai vụ cộng lại. Vụ trước làm ông mất mặt với toà Tỉnh. Nặng ký thì thuyên chuyển vô trong núi xa như Tân Rai hay Tân Lú tha hồ nghe chim kêu vượn hú. Nhẹ thì chế tài hành chánh, ngưng thăng trật một năm. Nhẹ nữa thì thư khiển trách lưu hồ sơ. Nhưng ông Lợi chỉ khiển trách sơ sơ rồi bỏ qua, chỉ bằng miệng chớ không ghi hồ sơ cá nhân.
Khi nghe tin Trưởng giáo về, ông Thống vội đến ngay để "thăm" ông sếp của mình. Cố tạo một khuôn mặt thật tươi, ông Thống cười nói, hỏi thăm rất sốt sắng, nhiệt tình. Sơn tỏ vẻ biết lỗi nên nhỏ nhẹ:
- Chắc trong thời gian tôi vắng mặt khá lâu, bác vất vả lắm phải không?
Tôi nhìn ông Thống chờ xem phản ứng của ông. Nhưng tôi nhầm. Ông Thống vần cười nói thản nhiên:
- -i giời! Tôi thì tôi lo cho thầy đi đường có bất trắc gì không, bởi thầy đi lâu quá. Chứ cái đám học trò thì có gì mà mệt. Thầy đừng có quan tâm. Tôi đã từng mấy chục năm giời trong nghề này rồi. Như ăn cơm bữa ấy mà!
Tôi trố mắt nhìn ông, kinh ngạc. Thì mới hôm qua, ông đến đây, vò đầu bứt tai than vãn làm như sắp chết đến nơi. Ông cứ rền rĩ cái điệp khúc quen thuộc: - -i giời ơi! Tôi chết mất! Tôi chết mất! Thế mà bây giờ lại hoàn toàn trái ngược, coi như chuyện hôm qua, chuyện bữa trước, chuyện tháng trước ông nói với tôi không có gì xãy ra hết. Sơn lại dò dẫm:
- Này bác Thống! Bây giờ tôi còn nhiều việc phải làm trên Đà Lạt, vài hôm nữa, nếu tôi về không kịp, bác trông hộ lớp cho tôi nhé!
- Vâng! Vâng! Thầy cứ đi. Thầy cứ lo cho xong công việc của thầy. Thầy cứ để mặc đấy cho tôi. Mấy cái đứa học trò ranh ấy mà. Chả có gì phải lo sốt.
Ông Thống sốt sắng đáp. Sơn kín đáo quay sang tôi, nháy mắt. Thế là xong. Ông Thống lại vào tròng. Sơn tiễn khách:
- Thôi bác về nghỉ nhé. Cám ơn bác đã đến thăm.
Ông Thống cầm nón đứng lên toan ra cửa, nhưng làm như sực nhớ ra điều gì. Ông lục cặp, lôi ra một xấp giấy tờ, lật qua, lật lại vài trang rồi đưa cho Sơn và nói:
- A! còn cái này nữa chứ, xuýt nữa là tôi quên khuấy mất. May quá lại nhớ. Nhờ thầy xem qua một tị.

(Còn Tiếp)
 

 

 

 

Copyright (c) DaiChung News Media 2002