Đại Chúng số 99 - Ngày 1 tháng 6 năm 2002

Duramax

LỜI GIỚI THIỆU
NHÀ VĂN VIỆT DƯƠNG NHÂN

Giáo Sư - Học Giả Vũ Ký

Tôi được đọc tập truyện Gió Xoay Chiều của nhà văn Việt Dương Nhân trên bản thảo đã lâu, chưa kịp viết lời giới thiệu theo sự đề nghị của Cô thì nay nữ sĩ đã viết tiếp cuốn truyện dài Mai Ly và tập truyện ngắn Đàn Chim Về.

Cảm nhận đầu tiên của người đọc qua các tác phẩm trên của Việt Dương Nhân là sự say mê và hấp dẫn trước một cây bút đa diện và đa dạng do cấu trúc nội dung thực sôi động các câu chuyện và do tưởng tượng phong phú của tác giả. Tôi bỗng nhớ đến lời một nhà phê bình văn học Tây Phương: “Cảm tưởng đầu tiên của người đọc trước một sáng tác thường chính xác và đúng đắn hơn hết, khi cảm tưởng ấy là một nhận xét tốt đẹp về tác phẩm". Có những nhà văn mà tâm thức sáng tạo khó khăn khởi nguồn trên đầu cán bút, có những nhà văn không mất công mà thực tế cuộc sống trên giòng mực lại tuôn trào dễ dàng dưới ngòi bút. Ở trường hợp trên, nhà văn phải sáng tạo sự sống cho các nhân vật. Ở trường hợp dưới, sự sống của nhà văn chính là thực tại không mài dũa, không chế biến các nhân vật trong tác phẩm của mình. Chính vì thế mà lời rào trước đón sau của nữ sĩ ở trang đầu: “Các nhân vật cũng như cốt truyện đều là hư cấu, nếu có sự trùng hợp nào là do ngẫu nhiên ngoài ý muốn của tác giả...". Tôi nghĩ lời nói này của VDN là không thực! Có sự sáng tạo nào mà không là của thực tại, nhất là ở trường hợp nhà văn Việt Dương Nhân. Sự sáng tạo và cảm nghĩ của văn-thi-nhân bao giờ cũng chảy ra thanh thoát theo dòng đời dàn trải của chính con người văn nhân nghệ sĩ là tác giả.

Các truyện trong Gió Xoay Chiều, rồi Đàn Chim Về, rồi đến truyện dài Mai Ly, tôi nghĩ rằng VDN không sáng tạo mà chính là sự sống của chính tác giả hay của những phần tâm cảm, ý thức, thể chất nào của người viết hòa nhập mật thiết với bao nhiêu nhân vật ở ngoài đời, bây giờ trải rộng ra trong những tác phẩm của Việt Dương Nhân.

Đó là hiện tượng thấu nhập, tương tác vô hình mà nhà văn cảm thức bằng trực giác sáng tạo để rồi thể hiện trong công trình trí tuệ của mình.

Chúng tôi đã nói nhiều, khá nhiều về cơ bản xây dựng sáng tác của nhà văn VDN mà không đi sâu vào nội dung các câu truyện của nữ sĩ chính là để thuyết minh cùng bạn đọc triết lý sáng tác của VDN. Điều quan yếu về tâm lý trong quá trình xây dựng tác phẩm của tác giả đó vậy.

Tôi không mất công tường thuật - dù tóm tắc - nội dung các truyện ngắn, truyện dài của VDN trong GXChiều, ĐCVề và Mai Ly cũng như không dẫn chứng những tình tiết, cảnh ngộ, éo le, khúc mắc "những trường hợp lương tâm", những khó xử của con tim rối nhùi mà nữ sĩ với tính nghệ thuật đặc biệt của mình đã dựng lên rất khéo trong tác phẩm. Tôi nhường cái bất ngờ thú vị ấy dẫn người đọc lạc bước đến những đoạn cuối đường đầy hấp dẫn trong cuộc đời các nhân vật của VDN.

Mỗi câu chuyện là một hay nhiều dòng đời, một hay nhiều cá tính, tâm lý, một hay nhiều môi trường, một hay nhiều hoàn cảnh của một hay nhiều con người mà hấp lực về tình cảm tròng tréo nhau có khi khắng khít khó vượt thoát, mà sự hoang tưởng về chiếm đoạt tình ái gây nên bao sự mất quân bình lý trí, mà nếp sống kim tiền xô bồ của xã hội biến đổi họ thành nạn nhân khốc liệt của gian manh xảo trá, của bụi đời lăn lóc... mà tội ác và đạo lý gây nên một chiến trường tâm lý...

Chính vì thế mà khi bất chợt đọc đoạn đầu câu truyện của VDN là ta khó kiềm chế mà phải đọc gấp đến giòng cuối để biết thái độ xử sự, ứng phó của nhân vật ra sao ở đoạn kết. Phải chăng đó là sự mê hoặc của tiểu thuyết, truyện ngắn nói chung và đó cũng là chân tài của VDN ở đây nói riêng vậy.

Khi nói về một tác phẩm nổi danh của một văn hữu mình, văn hào Pháp André Gide hạ bút viết, thông thường và đơn giản: “Thần trí, tâm tư của tôi khác trước nhiều lắm, khác hơn hồi chưa đọc truyện ấy, khác vì tràn ngập thích thú, khoái trá và mộng mơ. Và đó là một câu truyện hay"(A. Gide).

Một số truyện của VDN với cấu trúc nội dung là lạ đã đạt được cái tác dụng thú vị ấy đối với người đọc. và cái thú vị ấy ở đây cũng có khi làm người đọc mệt trí rất nhiều vì độc giả phải nhớ lại bao hành động phức tạp rối nhùi của từng nhân vật như trong các truyện: Gió Xoay Chiều, Lá Rơi Về Cội, Nguyệt Hạ v v...

Cái đa dạng và đa diện của nhà văn VDN mà tôi đã nói ở trên đạt đến một sự thăng hoa mâu thuẫn trong nghệ thuật: Người là nhà văn của đồng quê, một Tiền, Hậu Giang nào thấp thoáng con suối nhỏ, có rạch dừa mát rượi, điểm chút cánh bướm tình yêu nam nữ thẹn thùng dễ mến, mà cũng là của thành đô náo nhiệt, sôi động trong một cuộc sống xô bồ, từ quê hương Sàigòn mỹ miều, tội nghiệp đến Ba-Lê ánh sáng, hào hoa đọa lạc tội lỗi - Có Lê Xuyên, Hồ Biểu Chánh, Bà Tùng Long mà cũng có... Tôi xin cường điệu một chút: (Simon De Beauvoir, Francoise Sagan) trong văn chương của Việt Dương Nhân đó... Nữ sĩ cũng nhà văn của nghèo nàn, bụi đời, hạ lưu, của kẻ vô thần, ẩu bướng mà cũng là của kẻ phong lưu, tao nhã, trưởng giả "học làm sang". Và thỉnh thoảng VDN thích thuyết pháp về lẽ Đạo nhiệm mầu khi có cơ hội... Vì thế, dưới cái xô bồ hỗn tạp, cái thời thượng rởm của nền văn minh vật chất, ẩn dấu kín đáo đôn hậu cái tâm Phật, cái hướng thượng đạo lý cố hữu trong tâm thức kín đáo của nữ sĩ. Hãy nghe VDN lý sự:

Mọi sự trên đời đều có nhân có quả. Hãy ráng tu tâm và giữ tâm như đất. Còn ai có tâm hồn thi-văn thì khi nào cao hứng cứ viết. Nhưng đừng có tham vọng và tự cao, tự đại quá mà hại thân, và đôi khi còn làm buồn cho tha nhân nữa. "Tất cả những ai cưu mang làm văn chương nghệ thuật đều muốn dấn thân trong việc sáng tạo. Vậy chính họ phải cởi bỏ những tị hiềm để thoát xác thì con đường trước mặt mới sáng sủa hơn*". Làm thơ hay viết văn là đem Chân-Thiện-Mỹ để tặng cho đời và cũng tặng cho chính mình luôn nữa đó.

Rồi nữ sĩ tiếp theo các vần thơ thoát tục, khuyến dụ Từ-Bi:

Bao nhiêu đau khổ cõi trần

Bấy nhiêu bài học thấm nhuần Từ-Bi

Vô-ƯU thơm ngát đường đi

Vô-Ngã tan biến Sân-Si nơi lòng.

(“Tâm Như Đất” tập truyện ĐCV)

Ấy, đó là thói quen biểu dương nội dung văn dĩ tải tạo của người xưa mà truyện Xóa Hận Thù Riêng và đoản thơ Trở Về của VDN là một minh chứng:

Từ đây thù hận xóa tan

Tâm hồn nhẹ nhỏm, sáng chang cõi lòng

Bây giờ, Lệ chỉ ước mong

Mong sao nhân loại thoát vòng thù căm.

("Xóa Hận Thù Riêng")

... trở về ...

Thoạt nhiên hiện biển pha lê

Ra đi rồi lại trở về nơi đây

Cảnh đời vui khổ đủ đầy

Suy đi tính lại đêm ngày đều nhau

(... ... ...)

Như huyễn hóa, đến rồi đi

Lông-Rùa-Sừng-Thỏ có gì mà mơ

Trở về chốn cũ làm thơ

Dệt lên những thảm lụa tơ diệu huyền.

Có khi sau vài biến cố não lòng trong tình tiết các nhân vật, nhà văn bỗng nhiên đột xuất hạ xuống 5, 6 câu thơ lục bát cho hả hê cao hứng của mình. Và ta tìm sống lại văn phong quen thuộc lẫn trộn thi ca với văn xuôi trong của phần nhiều các cây bút hồi đầu thế kỷ của nền quốc văn mới:

... Tưởng rằng tim đã giá băng

Nào ngờ tim lại khăng khăng ươm tình

Nhớ thương chỉ một bóng hình

Phải chăng Tơ-Nguyệt đưa mình vào yêu?

(Tn "Vẫn Chưa Muộn Màng")

Hay:

... Hoa nào chẳng gặp gió mưa

Bướm nào là bướm lánh chừa vườn xuân

Ngẫm hay thế sự xoay vần

Bướm hoa, hoa bướm chất chồng nghiệp căn.

(Tn "Âm Thầm")

Việt Dương Nhân nói nhiều đến cảnh sống thị thành, từ cái chợ ở miền quê sơ sài, nàng sống thuở bé thơ đến Sài thành rộn rịp - và nói với rất nhiều trìu mến nhớ thương, tím thẩm bao hoài niệm đầy vơi lưu luyến. Rõ là một con người mà tâm cảm ray rức thiếu quê hương trong hiện tại chừ đây lạc loài trên một đất nước, lạc loài qua ánh sáng thủ đô Ba-Lê hoa lệ đầy đọa lạc và cậm bẩy (a lost man in a lost country). Hoặc, đôi lần nhà văn đoái nhìn về quê hương mà rớm lệ với bao cảnh cũ người xưa, còn mẹ già đang sống như ngọn đèn cạn dầu trước gió mà mòn mỏi trông con sẽ trở về gặp lại những phút cuối đời... Nhưng trong tâm ý bao giờ nữ sĩ cũng muốn trở vềánguồn để nhớ làng mạc quê mùa mà chửi thằng V.C. hết thời, đứa Bộ đội 30 thất thế, vùng kinh tế mới khô cằn nào đó mà nàng chỉ được nghe nói lại mà thôi:

- Chút nữa, anh qua bễn gọi chỉ với vợ chồng cháu Triều và cháu Đại về đây đi. Em đã nghe má kể sơ sơ về chuyện gia đình anh rồi. Tối ngày anh cứ uống rượu say sưa, rồi đánh vợ. Nên bị người ta bắt nhốt anh trong nhà thương điên mấy lần phải không?

- Đánh đâu mà đánh. Tại chị Ba mầy, nó chửi tao là thằng Việt-Cộng hết thời. Thằng Bộ-Đội-30 thất thế hoài. Ai chịu cho nổi. Nên đôi khi tao nổi điên lên đó... Chớ... chớ... tao nào muốn đánh vợ bao giờ!

- Chị Ba nói như vậy thì có sai chỗ nào đâu? Anh có thấy anh hết thời, thất thế không? Sự thật phũ phàng là như vậy, thì anh cứ nhận đi, mắc gì phải đánh vợ. Anh có biết, đàn ông mà đánh đàn bà là vũ-phu không?

- Thôi, bữa nay có mầy về là ngày vui, đừng có nhắc tới chuyện đó nữa. À, má vẫn khỏe hả Quê? Mà sao mầy không mời má về đây chơi?

- Cha, anh muốn chạy tội hén! Mai mốt anh Nam và anh Bắc trở về là anh hết chối. Nói chơi với anh, chớ anh em của tụi em sống trên mấy xứ Tự-Do, Dân-Chủ. Tụi em không có bắt bẻ hay hỏi tội anh đâu. Nhưng anh cũng phải làm cái gì để lấy công chuộc tội chứ?

- Thì tao cũng theo dõi tình hình. Nếu có gì hay hay là kêu gọi dân chúng đồng đứng lên chung. Và tao hy vọng sẽ có được thật sự Dân-Chủ, Tự-Do sau này. Mầy cũng biết quá rồi. Toàn dân Việt Nam, ai mà không mong muốn và khát khao có được những thứ đó.

- Ừa, ráng đi nha. Ở Hải-Ngoại người ta cũng ủng hộ trong này lắm đó... À, về má, thì em có hỏi. Nhưng má không chịu đi.

(Trích đoạn “Đàn Chim Về")

Đọc toàn bộ tác phẩm của Việt Dương Nhân, tôi nghĩ rằng nữ sĩ trước hết là một kịch tác gia hay một nhà văn chuyên viết chuyện phim để đạo diễn hay một nghệ sĩ xuất sắc với các tuồng cải lương nổi tiếng của miền Nam thuở trước hơn là một nhà văn viết truyện ngắn, truyện dài. Tình tiết trong các truyện éo le, khúc mắc, tròng tréo, tay ba, tay tư, gút và giải gút thỏa đáng thoát ra từ những động tác rối bời của các nhân vật gây nhiều bất ngờ thú vị cho người đọc. Đó cũng chính là cái tính - mâu thuẫn trong nghệ thuật khá độc đáo ở Việt Dương Nhân đó vậy. Và tạo được cao độ say mê thích thú khi đọc các truyện ngắn, truyện dài của nữ sĩ.

Bruxelles, 5/2002

Giáo Sư - Học Giả VŨ KÝ

         


 

Copyright (c) DaiChung News Media 2002