Đại Chúng số 95 - Ngày 1 tháng 4 năm 2002

Duramax

THƠ NGŨ NGÔN CHỮ HÁN NGUYỄN DU
SỞ KIẾN HÀNH

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng!

TUYỆT PHẨM KIỀU ĐÃ LÀM LU MỜ NHIỀU SÁNG TÁC KHÁC của Nguyễn Du và nàng Kiều vô hình chung còn làm lu mờ vô số những mảnh đời bạc phận khác do chính thi hào tả tại. Thật vậy, ngoài truyện Kiều, Nguyễn Du còn kể ra NHỮNG ĐIỀU TRÔNG THẤY KHÁC về nỗi lầm than của kiếp ngườilưôn xảy ra ở mỗi thời mỗi chỗ, và cả ở quê nhà nơi không phải chỉ trải qua có một mà đã bao lần dâu biển. Viết bài thơ NHỮNG ĐIỀU TRÔNG THẤY này, Nguyễn Du hẳn không mong người đọc “mua vui cũng được một vài trống canh", vì đây là một tiếng kêu thực sự còn đứt ruột gấp bội ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH. Bài ngũ ngôn Sở Kiến Hành được dịch dưới đây, trích trong Bắc Hành Thi Tập sáng tác vào khoảng năm 1813 thuộc loại thơ tả thực, rất hiếu trung các tác phẩm của Nguyễn Du và cả trong văn thơ cổ điển.

Phạm Đông Văn

dịch và giới thiệu

SỞ KIẾN HÀNH

Hữu phụ huê tam nhi

Tương tương tọa đạo bàng

Tiểu giả tại hoài trung

Đại giả trì trúc khuông

Khuông trung hà sở thịnh?

Lê hoắc tạc tì khang!

Nhất yến bất đắc thực

Y quán hề khuông tương

Kiến nhân bất ngưỡng thị

Lệ lưu khâm lang lang

Quán nhi thả hỉ tiếu

Bất tri mẫu tâm thương

Mẫu tâm thương như hà?

Tuế cơ lưu dị hương,

Dị hương sảo phương thục

Mễ giá bất thậm ngang

Bất tích khí hương thổ

Cẩu đồ thiếu sinh phương

Nhất thân kiệt dung lực

Bất sung tứ khẩu lương.

Diên nhai nhật khất thực

Thử kế an khả trường?

Nhấn hạ ủu câu hác

Huyết nhục tự sài lang!

Mẫu tử, bất túc tuất,

Phủ nhi tăng đoạn trường

Kỳ thống tại tâm đầu

Thiên nhật giai vị hoàng!

Âm phong phiêu nhiên chí

Hành nhân diệc thê hoàng

Tạc tiêu Tây Hà Dịch,

Cung cụ hà trương hoàng

Lộc cân tạp ngư xí,

Mãn trác trần trư dương,

Trưởng quan bất hạ trợ,

Tiểu môn chỉ lược thường

Bát khí vô cố tích

Lân cẩu yếm cao lương

Bất tri quan đạo thượng

Hữu thử cùng nhi nương!

Thùy nhân tả thử đồ

Tri dĩ phụng quân vương?

NHỮNG ĐIỀU TRÔNG THẤY

Một mẹ cùng ba trẻ

Ngồi vất vưởng bên lề,

Đứa nhỏ còn ẳm ngữa

Thằng lớn cầm giỏ tre.

Trong giỏ đựng gì nhỉ?

Cỏ rau tấm cám thừa!

Trời trưa chưa lót dạ

áo quần rách xác xơ

Gặp người không dám ngó

Tầm tả đôi dòng châu

Lũ trẻ vẫn hớn hở

Đâu biết lòng mẹ đau

Sao lòng mẹ đau nhỉ?

Từ năm đói tha hương

Xứ lạ mùa màng khá,

Giá gạo vẫn bình thường

Bỏ làng đi nào quản

Sinh sống tạm kiếm đường

Một người dẫu ráng sức

Nuôi bốn miệng sao kham

Đành qua ngày khất thực

Cách ấy có lâu dài ?

Chết rãnh ngòi mấy chốc

Máu thịt nuôi lang sài!

Mẹ chết không oán trách

Dỗ con, lòng nát tan.

Đau xot trông trời thẳm

Vầng ô cũng úa vàng!

Gió lạnh bỗng ào tới,

Động lòng khách qua đường

Trạm Tây Hà đêm trước

Tiệc mỹ vị cao lơng

Gân hươu cùng vi cá,

Thịt lợn dê đầy bàn.

Quan lớn chẳng thò đũa,

Quan nhỏ chỉ gắp chừng

Dổ bỏ không hề tiếc,

Chó hàng xóm cũng nhàm.

Nào biết trên đường phố

Bốn mẹ con khốn cùng!

Ai thấu tình cảnh ấy

Trình lên đấng Cửu Trùng?

Phạm Đông Văn

         


 

Copyright (c) DaiChung News Media 2002