|
|
Giới Thiệu |
Cụ Vũ Viết Khuê S.E.Vicks Burg F 3 Norman OK. (Qua Anh Tuấn): Tôi thắc mắc ngày xưa tại Trung Hoa mà cho đến ngày nay cũng còn tục này là "trẻ con không có tên chữ"? Bà cụ có thể giải luận về tính họ được không? * "Tên tự" là sau khi con trai làm quán lễ, còn con gái thì sau lễ cài trâm thì mới được có tên "Tự". Nguyên là ngày xưa cổ nhân ta hễ sinh ra là đặt "tên", nhưng tuyệt đối không được đặt tên "tự". Chỉ khi nào sau quán lễ, kê lễ thì mới được đặt tên "tự". Vì vậy người xưa thường bảo rằng: "Đồng tử vô tự". Tóm lại khi trai gái lớn lên đúng là thành niên mới được đặt tên "tự". Họ (tính) đặt trước tên (danh), rồi khi có tên "tự" thì đặt sau rốt hết. Cụ Lê Văn Phúc Atascocita Timber N. Humble TX. Bà cụ có nhớ bài Sơn hành của Đỗ Mục không? Xin bà cụ nhắc và dịch hộ lại cho. * Đỗ Mục có hai bài nổi tiếng: 1. Bạch Tần Hoài. 2. Sơn hành như cụ hỏi. Bài này như sau: "Viễn thượng hàn sơn thạch kính ta, Bạch vân thâm xứ hữu nhân gia. Đình xa tọa ái phong lâm vãn, Sương diệp hồng vu nhị tuyệt hoa. có nghĩa: Trên cao cao (kìa), hòn núi lạnh, (có) con đường đá đi xuống nghiêng nghiêng. Trong đám mây bạc (nơi) chỗ sâu thẳm có ngôi nhà ai. Buổi chiều dừng xe ngồi dưới rừng phong Lá nhuốm sương đỏ tựa hoa tháng hai. Ông Vũ Như Tường 49 Philadelphia (qua Chu Trương): Tôi còn nhớ câu ca dao Tàu có câu: 1/ "Long sinh long, phương sinh phượng, lão thử sinh nhi hội đả động". 2./ Long du thiển thủy tao hà hý. Hổ lạc bình dương bị khuyển khi. Nhưng cả hai câu tôi không nhớ được nghĩa của nó. Bà cụ nhớ xin giảng giải lại hộ. * Nghĩa câu 1 như sau: "Rồng sinh rồng, phượng sinh phượng, chuột sinh chuột con cũng biết đào hang". Ta cũng có câu: "Trứng rồng lại nở ra rồng Liu điu lại nở ra giòng liu điu. hay câu: "Nòi nào giống nấy". Câu thứ 2/ có nghĩa: "Rồng chơi sông cạn tôm dỡn mặt. Hổ lạc đất bằng bị chó khi. Bà cụ Đõ Võ Hà Thúc Brookhurst Westminster CA, Tôi nhớ man máng bài thơ ở sách Trinh Thử, phản đối tư tưởng bế quan , độc tôn của Hồ Quý Ly. Bà cụ nhớ đoạn thơ đó không? Xin nhắc hộ. * Chuột đực tự giới thiệu là Hồ Quý Ly qua lời thơ như sau:
Có dịp chúng tôi sẽ ghi tất cả bài thơ như bà yêu cầu. Ông Phạm hải Hồ Maryland (Qua Thọ Phan ): Rùa nói chung chữa những chứng bệnh nào, bà cụ có biết không? Nếu được xin giảng giải hộ cho. * Theo y luận tổng hợp của Đông phương qua luận lý triết học... thì bất cứ việc gì có linh khiếu đặc biệt đều được triển khai hầu xử dụng trên mọi mặt. Các y tổ và danh sư đã tìm thấy và truyền lại cho đời sau về các phần cơ thể của rùa có tác dụng như sau: 1. Qui nhục (thịt rùa) chữa chứng phế lao, ho lao kinh niên. 2. Qui đảm: mật rùa. Chữa chứng kinh nguyệt bất thường hay bí kinh nguyệt. 3. Qui huyết: (máu rùa) Chữa chứng đầy hơi, ứ đàm, cổ có bướu. 4. Qui tâm:Tim rùa. Dùng bảy cái đốt cháy còn tính pha với rượu, trị chứng mất ngủ, rất hiệu nghiệm. 5. Qui vĩ: Đuôi rùa. Lấy một cặp đực và cá, nhất là loại có ức màu vàng thì tốt nhất, làm thuốc chữa bệnh hiếm muộn con. Nếu uống toàn đuôi rùa đực sẽ sinh con trai. 6. Qui niệu: Nước đái rùa. Đây là môt vị thuốc vô cùng thần hiệu, nhưng phải chọn rùa có ức trắng, mu xanh thì hiệu nghiệm hơn... Tôi không là thầy Đông y, Nếu ông cụ muốn rõ hơn hãy đến tim các Đông y sĩ tại các hiệu bán thuốc Bắc. Ông Lê Phú Hào Reseda: Bà cụ có nhớ bài thơ "Mệ Mốc" của Nguyễn Khuyến không? Nếu nhớ xin nhắc hộ. * Bài thơ đó như sau:
Bà Văn Thanh Tùng Orange County: Trong Tam Tự Kinh có mấy câu: "PHÀM, HUẤN, MÔNG - TU, GIẢNG, CỨU - TƯỜNG, HUẤN HỖ - MINH, CÚ, ĐỘC, VI HỌC GIẢ - TẤT HỮU SƠ - TIỂU HỌC CHUNG - CHÍ TỨ THƯ. Bà cụ giảng hộ mấy câu này cho. Cám ơn. * HUẤN: giáo dục. Huấn luyện. MÔNG: Trẻ nhỏ mới bắt đầu học chữ , đọc sách gọi là Mông. TU: Cần phải. CỨU: Giảng cứu. Giải cái lý. TƯỜNG: Tường tận. HUẤN HỖ: Giải thích từng chữ từng câu vămn xưa. MINH: hiểu rõ. SƠ: bắt đầu. TIỂU HỌC: Lúc bắt đầu học. CHÍ: đến. TỨ THƯ: bốn cuốpn Luận Ngữ, Mạnh Tử, Đại Hạ, Trung Dung.
|
Copyright (c) DaiChung News Media 2002