Đại Chúng số 80 - phát hành ngày 15/8/2001

Duramax

Giới Thiệu
Sách Mới


CỰU PHỤ TÁ “XUÂN TÓC ĐỎ” NGUYỄN VĂN NGÂN, MỘT ĐẠI TỘI ĐỒ DÂN TỘC ĐÃ TIẾP TAY VỚI NGUYỄN VĂN THIỆU PHÁ NÁT MIỀN NAM!

  • NGÂN CHÊ KHIÊM CHẲNG KHÁC NÀO “CHÓ CHÊ MÈO LẮM LÔNG”, ĐÒI THAY KHIÊM BẰNG TRẦN VĂN ĐÔN CHẲNG KHÁC NÀO THAY CON CHỒN BẰNG CON CÁO!

  • NGÂN ĐÃ TỔ CHỨC BẦU CỬ GIAN LẬN ĐỂ ĐEM MỘT LŨ ĐÓI RÁCH, BẤT TÀI, LƯỜI BIẾNG VÀO THƯỢNG HẠ VIỆN, DÙNG TIỀN ĂN CẮP, BUÔN LẬU, VÀ ĐẦU CƠ CỦA THIỆU ĐỂ MUA CHUỘC BẦY GIA NÔ TRONG NGÔI NHÀ LẬP PHÁP, TU CHÍNH LUẬT BẦU CỬ CHO THIỆU ĐỘC DIỄN, VÀ TU CHÍNH HIẾN PHÁP CHO THIỆU LÀM THỔNG THỐNG SUỐT ĐỜI !

 ĐẶNG VĂN NHÂM (kỳ 4 tiếp theo và hết).

Trong 3 bài báo liên tiếp vưà qua, tôi đã mổ xẻ tường tận bài trả lời phỏng vấn cựu phụ tá Ngân qua 3 điểm chính quan trọng có tầm mức chính sách quốc gia, liên quan đến hầu hết vận mệnh của toàn thể nhân dân miền Nam gồm những vấn đề: Người quốc gia không có chỗ đứng trong cuộc chiến tranh ủy nhiệm, muốn chống Cộng hữu hiệu miền Nam cần phải có một chế độ phát xít kiểu Hitler, thực chất cuộc chiến tranh ủy nhiệm...

Nay, với bài này tôi sẽ tiếp tục mổ xẻ thêm nhận xét của Ngân đối với các vấn đề liên quan đến tập thể tướng tá trong quân đội VNCH, đến cá nhân thủ tướng Trần Thiện Khiêm, và mưu toan lật đổ Khiêm để đưa Trần Văn Đôn lên thay thế, những ý nghĩ về đảo chánh Thiệu...

Đồng thời, tôi sẽ lần lượt phơi bày và phê bình thêm những hành động của Ngân, với tư cách phụ tá Thiệu, như: dùng tiền bạc và quyền lợi vâït chất để mua chuộc đám dân biểu, nghị sĩ gia nô, tổ chức bầu cử gian lận để đưa tay sai vào thượng, hạ viện, tiếp tay cho Thiệu cai trị ngoài hién pháp, loại bỏ các ứng viên đối lập, tổ chức bầu cử độc diễn, tu chính hiến pháp để cho Thiệu ra tranh cử thêm nhiệm 3 và, nếu CSBV không chiếm miền Nam, Thiệu sẽ muôn năm làm Tổng Thống, để đục khoét cho đến cùng kiệt hết mọi tài nguyên quốc gia và bóc lột dân chúng cho đến mức xác xơ, thảm hại!...

Nói về hành động phá hoại miền Nam của cựu phụ tá Ngân trong suốt 4 năm trời đóng vai trò phụ tá TT Thiệu mà chỉ vỏn vẹn có mấy bài báo ngắn ngủi như thế này quả thật chúng tôi đã tỏ ra tắc trách với nghiã vụ cao cả của người làm báo, và đắc tội với độc giả không ít. Nhưng vì trang báo có hạn, và hoàn cảnh bất khả kháng, dù cho trong lòng vẫn còn nhiều điều muốn phơi bày trên giấy trắng mực đen để chia sẻ với đồng bào nỗi đau “nước mất nhà tan vì bọn lãnh đạo tham nhũng, dốt nát, bất tài “, song chúng tôi đành phải dùng bài này để tạm kết thúc vấn đề.

 

NGÂN CHÊ KHIÊM !

Ở đời ai cũng có quyền chê khen kẻ khác. Vả chăng chê khen vốn là sự thường tình, là người tri thức chẳng mấy ai bận tâm đến những điêù có tính cách thị phi ấy. Nhưng sự chê bai này của phụ tá Ngân lại diễn ra khác thường, có tính cách sỉ nhục công khai trong một bài báo, chứng tỏ những kẻ cùng thuyền đã từng ấm ức, thù hận và đấu đá nhau ngấm ngầm trong bóng tối của hậu trường sân khấu chính trị miền Nam từ lâu lắm rồi. Vì thế sự chê bai đó mang tính cách giống hệt như câu tục ngữ :” Chó chê mèo lắm lông”, hoặc thanh bai hơn, văn vẻ hơn là2 câu ca dao:” Lươn ngắn lại chê trạch dài, thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm”!

Phụ tá Ngân đã chê TT Khiêm những gì ? Sau khi đã tố giác một số tội “lưà thầy phản bạn, âm mưu bán chuá, tức bán đứng TT Diệm”, phụ tá Ngân viết nguyên văn như sau: “Ông Trần Thiện Khiêm là một người nguy hiểm, không có can đảm đối đầu một cách công khai, luôn luôn hành động trong bóng tối với những âm mưu đen tối. Ông là người chỉ biết đến quyền lợi cá nhân, và để đạt được tham vọng cá nhân, ông sẵn sàng phục vụ quyền lợi của ngoại bang...Chính phủ của ông Khiêm là một chính phủ thụ động, luôn luôn tuân hành những chỉ thị của người Mỹ. Ônh có danh hiệu là” ông thủ tướng ngậm miệng ăn tiền”. Ông cấu kết với các tướng lãnh tham nhũng để tồn tại và chuẩn bị cho vai trò tương lai của mình. Ông hy vọng sau ông Thiệu, người Mỹ sẽ chấp nhận ông!”...

Kế đó Ngân khoe câu chuyện trao đổi với TT Thiệu như sau: “...Tuy nhiên có nhiều lần tôi đã đề nghị tổng thống thay ông Khiêm, nhưng tôi cần TT bật đèn xanh thì tôi mới thực hiện. Nếu TT đồng ý thì trong vòng 24 giờ, quốc hội sẽ biểu quyết bất tín nhiệm chính phủ Trần Thiện Khiêm.”

Khi được hỏi người sẽ thay thế ông Khiêm là ai, Ngân đã trả lời ngon lành: Trần Văn Đôn! “... vì ông Đôn đã tham gia chính phủ với sự yểm trợ kín đáo của tôi và bằng sự khôn khéo phục vụ đối với ông Thiệu”. Sự tiết lộ hớ hênh này của Ngân đã khiến cho người thức giả hải ngoại biết thêm bộ mặt chính trị luồn cúi hèn mạt, đầy tham vọng thấp hèn của một viên tướng đã từng nổi danh là một anh “tây con”, chơi bời đàng điếm vô luân nhất, trẻ không tha, già không thương, lớn bùi bé mềm, đã không từ cả những người đàn bà thân thuộc trong gia đình, kể từ nhạc mẫu đến con dâu!

Như thế, sự chọn lựa của Ngân chỉ có tính cách bè phái và vì quyền lợi phe nhóm, cá nhân, hoàn toàn chẳng nhắm một mục đích cải thiện nào, chứ đừng nói gì đến chuyện phục vụ dân tộc và đất nước!

Vả chăng, ta nên biết, thoạt tiên Thiệu – Khiêm rất gắn bó và tâm đắc với nhau. Nhưng đến khi Thiệu tu chính hiến pháp để tiếp tục ra tranh cử làm tổng thống mãn đời, thì Khiêm mới thất vọng, và bắt đầu ấm ức, hậm hực. Như thế miếng ngon béo bở của đất nước biết bao giờ Khiêm mới ngoạm được? Vì vậy mà đẻ ra mối hiềm khích giưã Thiệu và Ngân với Khiêm.

Riêng về các đại tội của Khiêm, tôi đã viết hết sức đầy đủ trong bộ BMHTCTMN, gồm 3 quyển, bạn đọc nào muốn biết thêm xin tìm đọc.Nơi đây tôi không muốn lập lại cho thêm tốn giấy mực!

 

CÁC TƯỚNG LÃNH VNCH TRONG CON MẮT CỦA NGÂN

Khi được hỏi về nhận xét đối với các tướng lãnh trong quân đội VNCH, Ngân đã mạt sát thậm tệ tập thể tướng lãnh quân đội VNCH, không chừa một ngoại lệ nào, nguyên văn như sau: “Hầu hết các tướng lãnh đều thoát thai từ một môi trường xấu, nguyên phục vụ trong những đội quân phụ thuộc của quân đội viễn chinh Pháp, là những đội quân thiếu truyền thống. Họ không có lý tưởng chính trị và cũng không có lương tâm trách nhiệm của một người lính chuyên nghiệp. Vì không thể tiến thân bằng con đường học vấn nên họ đã phải vào quân đội để kiếm sống. Do sự bành trướng của quân đội nên họ được thăng cấp rất nhanh nhưng thíu kinh nghiệm chiến trường, không biết hoặc không cần biết tới nghệ thuật lãnh đạo, chỉ huy. Đa số đều tham nhũng, nuôi dưỡng tình trạng lính ma, lính kiểng, đã làm băng hoại cả một quân đội...”

Đây chính là một thùng phân lỏng đầy dòi bọ gớm ghiếc, bốc mùi thối khắm lừng lẫy, mà Ngân đã hất thẳng vào mặt toàn thể các cựu tướng tá của quân đội VNCH – kể cả Nguyễn Văn Thiệu! – hiện còn đang sống lưu vong ở hải ngoại. Từ đó đến nay đã hơn 2 tháng trôi qua, người ta không khỏi lấy làm lạ, chẳng thấy một vị cựu tướng tá anh hùng nào ở Mỹ dám lên tiếng hó hé đôi lời!

Như thế, phải chăng lời sỉ nhục nặng nề của Ngân đã hoàn toàn đúng sự thực, khiến các đương sự đành “ngậm miệng” cho mùi hôi thối khỏi bay xa và lan rộng ra hơn nưã trong các giới đồng bào tị nạn hải ngoại?

Mặt khác, người ta cũng ngạc nhiên rất nhiều khi thấy những tay sai của các vị tướng ấy, không một ai dám nhân danh “quân đội VNCH” để lên tiếng phản bác, chửi ruả, và hăm he đòi đánh đập Nguyễn Văn Ngân, để trả thù cho chủ tướng?!

Ngoài ra, những kẻ cầm bút, làm báo bất lương ở Bolsa, gồm Lê Tất Điều, Tú Gàn và ả Hoàng Dược Thảo của tờ Sài Gòn Nhỏ vốn có thành tích chuyên vu khống, chửi bới vung vít đủ mọi hạng người, không cho thanh minh, cải chính, nay cũng “ngậm miệng ăn tiền”. Thì ra, tất cả đều là “đồng loại”!

Theo tôi, tuy phụ tá Ngân đã hàm hồ vơ đũa cả nắm, không cần biết vàng thau lẫn lộn, có thể làm đau lòng cho những vị tướng sạch và có nhân cách; nhưng nếu căn cứ vào sự thực hiện hữu và lấy công tâm mà xét thì Ngân cũng có lý phần nào. Nếu kiểm điểm những hành động của các tướng tá VNCH từ 1975 đến nay (2001), ta thấy có một số người đã hiện nguyên hình thành những tay lưu manh đại bịp, núp dưới chiêu bài “cựu quân nhân” và “quân đội VNCH” để thực hiện những hành động băng đảng tội ác kiểu Mafia rất ghê tởm. Đáng kể nhất là các tổ chức bịp bơm, bất lương sau đây:

_ Cấu kết nhau lập ra băng đảng thổ phỉ “MẶT TRẬN KHÁNG CHIẾN MA”, giả danh “CHỐNG CỘNG” để lừa gạt tiền bạc của đồng bào nhẹ dạ và giết người vô tội. Đáng tội nhất gồm các tên: cựu Đề đốc Hoàng Cơ Minh, cựu đại tá Phạm Văn Liễu, cưụ đại tá Trần Minh Công, cưụ trung tá Lê Hồng (tự lên lon làm trung tướng)...

Tụ tập dưới trướng của tên vô danh tiểu tốt Nguyễn Hữu Chánh, núp dưới danh hiệu “CHÁNH PHỦ LƯU VONG” gồm các cựu tướng tá như: Cựu Trung tướng Linh Quang Viên (được tên Chánh phong cho lên lon lèo: đại tướng!), trung tướng Nguyễn Văn Toàn (đã bị sa thải, vì lý do tiền tích bất hảo), thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh (cựu tư lệnh sư đoàn 3, đã được tên Chánh phong cho chức Trung tướng, đóng vai trò tổng trưởng Quốc Phòng), thiếu tướng Lâm Văn Phát (cựu tổng trưởng Nội Vụ, đã chết), Đề đốc Lâm Ngươn Tánh (được tên Chánh thăng cho chức Đô Đốc), cựu sĩ quan nha Quân Pháp Trần Văn v.v...

Về phía dân sự có các bộ mặt tham nhũng thối nát, trí thức sôi thịt như: Nguyễn Văn Tánh (tổng vụ trưởng tổng vụ hải ngoại), Trần Đức Hậu (tổng trưởng Thanh niên), giáo sư Ngô Trọng Anh, cựu dân biểu gia nô Hà Thế Ruyệt, “tiến sĩ” Cao Thế Dung, cựu thẩm phán Nguyễn Huy Đẩu (còn gọi là Đẩu già, một tên mặt sắt đen sì, ăn bẩn nhất trong ngành tư pháp và ngoại giao thời đệ nhị CH),...

Nơi đây, tôi tạm gác thành tích biểu của các nhân vật thuộc thành phần dân sự trong chánh phủ bịp Nguyễn Hữu Chánh qua một bên, để chỉ nói riêng đến các cựu tướng tá của quân đội VNCH hồi 26 năm về trước.

Trước ngày chú Chánh nhóm đại hội chánh phủ lưu vong bịp ở Anaheim Convention Center, Orange County, (24.6.2001), cựu trung tướng Nguyễn Chánh Thi, một sĩ quan chính trực hiếm có của quân đội VNCH, hiện đang ngụ tại HK, đã gọi điện thoại cho tôi báo tin về đại hội này, và còn nói thêm:

_ “Anh Nhâm biết không, sở dĩ tôi biết tụi này sắp nhóm đại hội gì đó ở Cali, vì mới đây cha Linh Quang Viên đã gửi thơ và đích thân mời tôi tới dự đại hội đó. Anh biết, đời nào tôi thèm ngồi chung với bọn mặt mốc đó. Còn thằng cha Viên tôi thấy hắn đã tự phong lên làm đại tướng rồi. Tôi hỏi hắn: Hồi ở VN, anh mang cái lon trung tướng đã không xứng rồi. Nay, ở hải ngoại, anh lại còn tự thăng chức lên làm đại tướng. Ai gắn lon cho anh? Đồ bá láp! Thôi dẹp đi cho rồi cha ơi!...

Đấy anh xem, ngày xưa mấy thằng tướng này đã chẳng ra gì, còn đất nước, còn dân chúng không biết giữ, khiến cho tụi Mỹ khinh, nó bỏ rơi. Bây giờ làm mất nước rồi, ra hải ngoại chúng càng quậy cho thúi thêm! Úi chà, chán quá, thúi quá anh Nhâm ơi! có lẽ tôi lại bị bịnh “thối mũi” lần nưã mất!...”

Sở dĩ tôi kể lại mẩu đối thoại ngắn ngủi này, cốt để chứng minh cho phụ tá Ngân thấy rằng trong hàng tướng lãnh quân đội VNCH vẫn còn có một số người nhân cách đáng cho ta mến phục. Tất cả chẳng phải ai cũng đều như các tẩu tướng: Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Cao Văn viên, Huỳnh Văn Cao, Nguyễn Văn Toàn, Linh Quang Viên, Nguyễn Duy Hinh và Lâm Ngươn Tánh (được chú Chánh phong cho lên Đô Đốc)... đâu!

Nói đến Lâm Ngươn Tánh, mà nơi đây tôi không kể thêm cho độc giả biết về thành tích “tham nhũng, thối nát, và buôn lậu bạch phiến” của viên cựu đề đốc này thực là một điều thiếu sót đáng trách. Không kể đến cá tính ti tiện, khắc nghiệt độc ác của đương sự, nơi đây tôi chỉ kể lại những hành động phạm tội của Lâm Ngươn Tánh, với những chi tiết đích xác và tài liệu cụ thể nhất: Vào khoảng năm 1966, giưã lúc Tánh đang giữ chức tham mưu trưởng Hải quân, bỗng nhiên bị ngưng chức vì tội đã trực tiếp can dự và bao che cho mấy sĩ quan cao cấp cầm đầu ngành HQ xử dụng 3 căn cứ HQ trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, gồm : Rạch Sỏi, Long Xuyên và Tân Châu, thuộc quyền chỉ huy của Lâm Ngươn Tánh để đổ thuốc phiện, vàng và bạch phiến, cùng với các loại hàng lậu thuế khác...bằng các tàu đánh cá hay những chiếc ghe chài Thái Lan và Căm Bu Chia.

Từ 3 căn cứ đó các kiện hàng lậu và quốc cấm được chuyển lên những chiếc tàu tuần thám khinh tốc, loại PCF của HQVN để chở về Sài Gòn. Đôi khi những kiện hàng đó cũng được chở thẳng về Sài Gòn bằng ghe chài hay ghe đánh cá của tư nhân, nhưng luôn luôn vẫn có tàu tuần giang của HQ thuộc quyền Lâm Ngươn Tánh ctheo hộ tống!

Cuộc làm ăn của Lâm Ngươn Tánh và đồng bọn trong ngành HQVN ngày càng phát triển mạnh, gần như công khai, đến khoảng tháng 6.1971 thì bị nổ lớn. Lúc bấy giờ Mỹ mới áp lực mạnh, buộc Thiệu phải triệt hạ ngay vụ buôn lậu ma túy trong ngành HQ do Chung Tấn Cang và Lâm Ngươn Tánh chủ trương. Chính vì vụ này mà Thiệu và Quang đã phải đẻ ra cái gọi là “UỶ BAN QUỐC GIA BÀI TRỪ MA TUÝ”, nhưng lại trao cho Chung Tấn Cang làm chủ tịch, còn Lâm Ngươn Tánh làm chủ tịch “Uỷ Ban Bài Trừ Ma Túy Hải Quân”!!!

Như thế, rõ ràng cái chính phủ lưu vong của chú Chánh chỉ là một ổ tập họp những hạng sĩ quan cặn bã của quân đội VNCH, mà nay lòng tham vọng và háo danh dổm vẫn còn ngùn ngụt trong đầu!

 

ĐẢO CHÁNH THIỆU DỄ ỢT?!

Nói về đảo chánh Thiệu, phụ tá Ngân khoe khoang, phét lác, ngụ ý ngầm đề cao mình và quan trọng hoá vai trò “phụ tá” của mình, bằng những câu nguyên văn: “Theo sự lượng giá của HĐ An Ninh QG về các khả năng đảo chánh, tôi bị xem là người nguy hiểm số 1, vì họ cho tôi là người có khả năng thực hiện một cuộc đảo chánh bằng quân sự và chính trị qua hệ thống quân ủy đảng Dân Chủ và qua Quốc Hội...Nếu ngày đó tôi muốn đảo chánh TT thì tôi có thể làm được. Tôi chỉ cần một tiểu đoàn tấn công dinh Độc Lập và ngay sau đó sẽ vận động Quốc Hội tu chính Hiến Pháp để thành lập Đệ Tam Cộng Hoà...”

Tôi không hiểu các vị tướng tá đã từng xông pha trận mạc nhiều năm và đã từng phục vụ dưới trướng của TT Thiệu nghĩ sao về lời tuyên bố này của Nguyễn Văn Ngân. Riêng tôi, tuy không phải là một quân nhân chính cống, chỉ thụ huấn quân sự 9 tuần, nhưng là một nhà báo có nhiều bạn rất thân, sĩ quan cao cấp, trong đủ các binh chủng của quân lực VNCH, nên đã có dịp được theo dõi, bám rất sát các cuộc đảo chánh quan trọng, từ vụ đảo chánh năm 1960 của tướng Thi, đến các vụ đảo chánh 1963, vụ chỉnh lý kế đó, rồi tới vụ “biểu dương lực lượng” của tướng Dương Văn Đức... Cuối cùng tôi lại còn trực tiếp tham gia, đóng vai trò điều nghiên, móc nối và phối hợp các đơn vị quân đội tham gia 2 cuộc đảo chánh, do đại tá Phạm Ngọc Thảo chủ trương nhằm lật đổ tướng Khánh, tổng Tham Mưu trưởng QLVNCH, vào năm 1965 (muốn biết chi tiết xin đọc thêm bộ sách BMHTCTMN, gồm 3 quyển, của tác giả bài này), nên tôi nghĩ câu nói của Ngân, cho rằng “chỉ cần một tiểu đoàn tấn công dinh Độc Lập” có vẻ hoang đường và trẻ con!

Nên nhớ: Kể từ sau năm 1968, Thiệu rất sợ phải theo chân anh em ông Diệm, nằm trong thiết vận xa, máu me bê bết, nên thủ thân rất kỹ. Các lực lượng tinh nhuệ cơ động đều bị Thiệu đem “tái phối trí” hết ngoài vùng 1, để đóng đồn lập trại...nuôi heo, nuôi gà, trồng khoai lang, chẳng khác nào điạ phương quân. Riêng quân đoàn 3 thì nằm gọn trong tay các tướng tá, tay sai ngoan ngoãn của Thiệu...

Còn chuyện Ngân nói “sau đó sẽ vận động QH tu chính Hiến Pháp để thành lập đệ tam CH”, theo tôi cũng chỉ là những lời phô trương có tính cách tự đề cao mình một cách lố bịch, hoạ chăng chỉ có đàn bà trẻ con mới chịu nghe lời hắn.

Nên biết dưới thời đệ nhị CH, nhờ chính sách “mua chuộc dân biệu, nghị sĩ bằng tiền”, qua trung gian của Nguyễn Cao Thăng rồi đến Nguyễn Văn Ngân (kẻ kế nhiệm sau khi Thăng chết bịnh ung thư, khoảng tháng 4.1970), nên Thiệu đã tạo được một bầy hạc gỗ trong hai ngôi nhà thượng –hạ viện, để tha hồ tung hoành, tự do ngồi chồm hổm trên hiến pháp mà không sợ bị truất phế. Thành tích đó chẳng phải do tài cán gì của Nguyễn Văn Ngân, mà chính là nhờ uy lực của những tờ giấy in hình” Đức Thánh Trần” , hay “in hình ông Washington” tổng thống Mỹ mà thôi.

Ở miền Nam, những cuộc kỳ kèo trả giá mua bán “phiếu” giữa Thiệu (do Ngân thay mặt) với các dân biểu, nghị sĩ gia nô, đã trở nên công khai, chẳng khác nào khu chợ cá lộ thiên Trần Quốc Toản, thậm chí đến phóng viên các báo chí ngoại ngữ ở Sài Gòn đều biết. Những cuộc mua bán phiếu do Ngân làm trung gian đã trở nên bẩn thỉu đến mức đông tây cổ kim hãn hữu là đặt thành giá biểu cho mỗi phiếu “thuận” tùy theo từng dự án luật, tối thiểu từ 2.000 Mỹ kim trở lên và theo thể thức giống y hệt các buôn bán của mấy mụ đàn bà thất học ngoài chợ là “Tiền trao chao múc. Không tiền thì trút cháo vô !”.

Vậy, từ truyền thống bẩn thỉu đóù, câu hỏi được đặt ra: “Nếu sau khi đã dùng một tiểu đoàn tấn công dinh Độc Lập rồi – chưa biết có thành công hay không đâu nhé! – làm sao, tiền đâu để Ngân có thể tung ra mua phiếu, ít nhất cũng phải đủ 2 phần 3 phiếu “THUẬN” của đám dân biểu, nghị sĩ chuyên bán phiếu?!”

Kết luận, câu nói “thành lập nền đệ tam CH” của Ngân nghe chẳng khác nào chủ trương “miền Nam cần phải có một chế độ độc tài kiểu Hitler”, đã phản ánh một tâm hồn bịnh hoạn chưá đầy hoang tưởng viễn vông!

 

CÁC ĐẠI TỘI CỦA NGÂN.

Trước hết tạm gạt sang một bên những chuyện bẩn thỉu, lẻ tẻ, vụn vặt, khỏi bị loãng mất các đại tội phản dân, hại nước, a tòng với tẩu tướng tham nhũng Nguyễn Văn Thiệu, làm cho miền Nam bị rơi vào tay CS dễ dàng, và khiến cho dân tộc bị lầm than, hàng triệu người phải vượt biên, tìm đường trốn chạy CS với giá đánh đổi sinh mạng. Những đại tội ấy được qui gọn trong các điểm chính sau đây:

Tổ chức bầu cử gian lận, đưa gia nô, bất tài, đói khát vào ngôi nhà lập pháp. Dùng tiền ăn cắp, buôn lậu của Thiệu để mua chuộc dân biểu, nghị sĩ làm gia nô, gọi dạ bảo vâng, bao che và ưu đãi cho bọn dân biểu thân chính tha hồ buôn lậu bạch phiến, vàng, thuốc phiện, và các loại hàng xa xí phẩm lậu thuế...

Dùng tiền ăn cắp của Thiệu để mua chuộc bọn dân biểu, nghị sĩ gia nô để cho Thiệu tranh cử độc diễn nhiệm kỳ 2, và tu chính hiến pháp để cho Thiệu được tiếp tục tái ứng cử nhiều kỳ mãi mãi và trở thành tổng thống muôn năm trường trị!

1.- TỔ CHỨC BẦU CỬ GIAN LẬN: Ngoài trừ bài báo của ông Trần Văn Trọng, một người trong cuộc, một nạn nhân thì đúng hơn, đã vạch trần thủ đoạn bầu cử gian lận do Ngân chủ xướng và đạo diễn, tôi còn biết thêm nhiều mánh khoé vặt vãnh khác nưã như: Ra lịnh cho các đơn vị trưởng các lực lượng binh sĩ đang hành quân trên toàn quốc phải thực hiện tối đa trò ăn gian phiếu. Theo luật bầu cử, trong ngày bầu cử, đơn vị nào đang hành quân nơi đâu thì phải bõ phiếu tại phòng phiếu gần nhất. Mỗi lần bỏ phiếu như thế, đơn vị tập trung đầy đủ binh sĩ, chở bằng GMC đến tận phòng phiếu. Bỏ phiếu xong nơi này, đơn vị ấy tiếp tục di chuyển đến nơi khác, lại bỏ phiếu nơi đó lần nữa, và cứ thế tiếp diễn dài dài cho đến khi hết giờ bỏ phiếu!

Trước ngày bò phiếu, Ngân chỉ thị cho các đơn vị quân cảnh trên toàn quốc, phải bận thường phục, nhưng vẫn dùng quân xa chuyên chở, nưả đêm đi hết các nẻo đường trong thành phố, xé hết bích chương của các ứng viên không thuộc danh sách gia nô đã được Ngân tuyển chọn, rồi dán bích chương của gia nô lên thay thế.

Tuy đã thực hiện đủ mọi thủ đoạn ma giáo để cản trở đối lập, Ngân vẫn chưa yên tâm, còn thực hiện trò ăn gian phiếu cách hết sức trắng trợn, chẳng còn coi lương tri con người và luật pháp quốc gia ra gì nưã. Trước khi khui thùng phiếu và lập bảng tổng kết số phiếu của mỗi liên danh (hay ứng cử viên), các ủy ban bầu cử điạ phương đã nhận được nghiêm lệnh từ dinh tỉnh trưởng, vắn tắt như sau: Đối với các ứng cử viên (hay liên danh “gà nhà” cứ nhắm mắt thêm đại vào cuối bảng tổng kết một con số “không” (0) nữa. Nếu 4 số sẽ thành 5 số. Ngược lại phải cắt bỏ ngay con số cuối cùng trong bảng tổng kết số phiếu của ứng viên hay liên danh đối lập. Bằng chứng cụ thể là cuộc bầu cử Thượng Viện kỳ nhì, tại thị xã Vũng Tàu, kết quả sơ khởi cho biết LD đối lập của Phạm Nam Sách được 14.000 phiếu. Lập tức ủy ban bầu cử được lịnh phải cắt ngay con số “0” cuối cùng, trong chớp mắt biến kết quả chung cuộc chỉ còn có 1.400 phiếu mà thôi!

Khi vụ ăn gian phiếu trắng trợn quá đáng và quá lộ liễu như thế trở nên rùm beng thấu tai các phóng viên báo chí quốc tế, Thiệu đã lên truyền hình tuyên bố tỉnh bơ: “Ồ, chẳng qua đó chỉ là sơ xuất nhỏ khi làm toán cộng”. Nhưng dù sao con số sai biệt đó quá nhỏ, vẫn không thay đổi gì được kết quả bầu cử. Thế là hoà cả làng!

2.- MUA CHUỘC VÀ BAO CHE DÂN BIỂU BUÔN LẬU HÀNG QUỐC CẤM:

Chưa đủ. Ngân còn dùng tiền căn cắp, buôn lậu và đầu cơ gạo với phân bón, tiền viện trợ Mỹ của Thiệu trao cho... để “mua phiếu” của các dân biểu, nghị sĩ. Giá mỗi phiếu “thuận”, tùy từng trường hợp, và tính chất quan trọng của mỗi vấn đề, mà giá biểu xê dịch từ 1.000MK tới 2.000MK. Hằng tháng ngoài số lương dân biểu luật định, qua tay Ngân, Thiệu còn phải trả thêm cho mỗi dân biểu mỗi năm từ 4.000 đến 6.000 MK(tính ra khoảng 1 triệu 600 ngàn cho đến 2 triệu 400 ngàn đồng VN, thính theo giá hối xuất thời đó: 1MK= 400 đồng VN).

Nghiên cứu về các chế độ cai trị trên thế giới hiện nay, ta chưa từng thấy nước nào đã xảy ra tệ nạn “chuộc” dân biểu như các gánh cải lương chuộc đào, kép, hoặc như các đội banh chuộc cầu thủ bao giờ! Dưới thời Thiệu cầm quyền, với phụ tá chính trị là cậu “Xuân Tóc Đỏ” Nguyễn Văn Ngân, giá chuộc mỗi dân biểu từ phe đối lập, hay phe của Kỳ sang thân chính khoảng từ 1.500 MK cho đến 3.000 MK tùy theo từng cá nhân dân biểu. Ngoài ra mỗi năm, đến ngày Tết các dân biểu khối Độc Lập, tức gia nô của dinh Độc Lập, lại còn được Thiệu vời vào dinh xoa đầu, nựng má và phát cho mỗi anh một phong bì “lì xì” 200.000 đồng tiền mới cáu cạnh còn thơm phức mùi giấy!

Những trò đó đều do Ngân đạo diễn. Cố vấn đặc biệt chính trị mà!

Mặt khác đám dân biểu, nghĩ sĩ gia nô của dinh Độc Lập còn đương nhiên được hưởng nhiều ưu đãi quá đáng, tha hồ xuất ngoại soành soạch, một năm đôi ba lần, để buôn lậu đủ mọi mặt hàng quốc cấm và lậu thuế, khiến cho ngân sách quốc gia bị thâm thủng nặng nề, trong khi đồng lương binh sĩ và công chức không đủ nuôi thân.

Xin kể sơ qua một vài bằng chứng cụ thể: Trong khoảng thời gian có 6 tháng (từ tháng 9.1970 đến tháng 3. 1971), đã diễn ra liên tiếp đến 7 vụ dân biểu xuất ngoại, buôn lậu hàng quốc cấm bị bắt quả tang. Theo tôi biết cách đích xác các dân biểu gia nô thuộc khối Độc Lập như : Nguyễn Quang Luyện, Phạm Hữu Giáo, Võ Văn Mầu, Phạm Chí Thiện và mấy dân biểu người Việt gốc Hoa Lâm Minh Lê, anh em Mã Xái, Mã Thất... mỗi năm đã xuất ngoại công du đến 4 lần. (thay vì chỉ được phép mỗi năm xuất ngoại có 2 lần !).

Tính về thời gian, nội trong năm 1969, có những dân biểu đã lưu trú tại ngoại quốc đến 119 ngày, tức 4 tháng liên tiếp. Đến năm 1971, số dân biểu lưu ngụ ở ngoại quốc đã leo thang khủng khiến đến 75 ngày chỉ nội 3 tháng đầu! Như vậy thử hỏi những dân biểu ấy còn thì giờ nào đã họp hành và làm việc cho dân ? Tính cách tay sai, và gia nô, bất cần quần chúng thực đã hiện ra rất rõ nét trên bằng chứng này.

Xét về mặt tài chính, từ 1969 đến 1970, trong một năm, các dân biểu gia nô đã xuất ngoại công du khiến cho ngân qũy quốc gia bị tốn hao đến 821.000MK, tính ra đến 328 triệu 400 ngàn đồng VN. Một con số khổng lồ đối với tình trạng đói khổ của quần chúng lúc bấy giờ!

Mặt khác, theo sự tìm hiểu của tôi, trong thời gian từ 1967 cho đến 1975, nghiã là trong thời kỳ Thiệu làm tổng thống, mỗi năm con số dân biểu xuất ngoại du hí cũng lên đến con số khủng khiếp ngoài sức tưởng tưởng của mọi người là: 124 dân biểu trong tổng số 137 người đại diện dân của một nước đang bị chiến tranh tàn phá, dân tình đói khổ, nheo nhóc, chết chóc diễn ra hằng ngày!

Đó là đại tội của ai, nếu không phải của cậu “Xuân tóc Đỏ” Nguyễn Văn Ngân?!

Nói “dân biểu Công Du” là tôi nói cho vui theo hình thức, chứ thực ra bọn gia nô này xuất ngoại để chơi gái, gọi là “trả thù dân tộc”, và buôn lậu làm giàu. Xin vạch mặt chỉ tên từng người, để khỏi mang tiếng hàm hồ vơ đuã cả nắm. DB Nguyễn Quang Luyện, đệ nhị phó chủ tịch quốc hội, kiêm chủ tịch Liên Hiệp Nghị Sĩ Á Châu, ngày 18.3.71 từ phi trường Bangkok, Thái Lan, về Sài Gòn đã bị cảnh sát quan thuế Thái bắt giữ ngay tại phi trường vì tội buôn lậu 15 kí lô vàng 24 tuổi, trị giá khoảng 30.000 MK. Theo nhà chức trách Thái cho biết, con số 15 kí lô vàng đó chỉ làm một phần trong số 90 kí lô vàng, trị giá khoảng 160.000 MK đã được Luyện và đồng bọn dân biểu công du vận chuyểûn lần hồi về VN.

Sau Luyện là Phạm Hữu giáo (còn gọi là Giao) dân Thiên Chuá Di cư, dáng người mập lùn, bụng chương phình lên ngang mặt như người bị bịnh củ chướng, thân nhân ruột thịt cuã LM TRần Du chủ nhiệm báo Hoà Bình. Giáo làm tổng thơ ký Hạ Viện, xuất ngoại soành soạch như đi chợ. Còn nhớ, nội trong năm 1970, 2 lần trong 2 tháng 8 và 12 Giáo đã bị quan thuế phi cảng TSN vồ những va li chưá đầy vàng lá. Nhưng kết cuộc, nhờ Ngân can thiệp, Giáo chỉ bị phạt vạ chiếu lệ, và được phép lãnh tang vật ra để bán lấy lời!

Về sau Giáo còn được Thiệu cử làm “siêu đại sứ VNCH” tại thủ đô Paris, mặc dù Giáo đọc tiếng Pháp còn phải đánh vần, và xuất thân giáo viên tiểu học, cùng lứa với dân biểu Nhữ Văn Uý, hỗn danh là “người lùn gây khói lửa” thỉnh thoảng móc súng ra bắn èng èng trong ngôi nhà hạ viện chơi cho vui!

Năm 1971,khối Độc Lập gia nô của Thiệu được lịnh phải tu chính gấp luật bầu cử tổng thống, sử lại điều số 10, bắt buộc các ứng viên TT phải hội đủ tối thiểu 40 chữ ký ủng hộ của dân biểu hạ viện, hoặc 100 chữ ký của nghị viên hội đồng tỉnh. Công tác ngày Thiệu và Ngân trao cho Giáo. Thoạt tiên Giáo mở màn mua chuộc mấy dân biểu gốc thiểu số cao nguyên trung phần (Thổ, Mường, Ra Đê...) như dân biểu Phù Năng Khìn (hiện đang tị nạn ở Thụy Điển), với giá một phiếu giới thiệu, tức 1 chữ ký cho Thiệu là 200.000 đồng. Đối với các dân biểu gốc Căm Bu Chia, thuộc các đơn vị miền Đaông hay miền Tây Nam phần, Giáo phải mua với giá gấp đôi, đến 400.000 đồng.

Sau 3 ngày kỳ kèo mặc cả, bớt một thêm hai, đến giờ chót giá mỗi chữ ký ủng hộ Thiệu nhảy vọt từ 400.000 lên tới 800.000 đồng.

Nhờ tung tiền ra làm mồi nhử bầy “cá Tra” trong Hạ Viện Thiệu và Ngân đã mua được 75 phiếu, để loại hẳn Dương Văn Minh và Nguyễn Cao Kỳ ra khỏi vòng tranh cử. Thế là cuộc bầu cử TT nhiệm kỳ 2, Thiệu ra độc diễn, một mình một chợ, ăn chắc như bắp. Khoẻ re!

Âm mưu này của Thiệu và Ngân, khiến cho ngôi nhà lập pháp bay mùi xú uế, cơ chế dân chủ bị tan hoang, dân tâm ly tán chán chường, không còn thiết gì đến việc chống Cộng nữa... cũng là một đại tội đối với đất nước và dân tộc, xử bắn cũng chưa vừa!

Ngoài ra, tôi còn được biết, trong thời gian từ 1967 đến 1975, bên Thượng Viện đã chiếu chi hiến pháp trao qua hành pháp bản dự luật yêu cầu hành pháp mỗi khi thăng cấp tướng cho bất cứ một sĩ quan nào, và các đại sứ trường khi được bổ nhiệm ra hải ngoại phải được sự chấp thuận của thượng viện. Đây là một đạo luật nhắm loại trừ những tên tướng bất tài, tham nhũng và thối nát, cũng như nhắm kiểm soát bọn đại sứ bất xứng, do bè phái, thân thuộc được bổ nhiệm ra hải ngoại làm nhục quốc thể, ngồi chơi sơi bát vàng, và bòn rút ăn bẩn công uqỹ v.v... Nhưng tiếc thay, suốt thời kỳ Thiệu cầm quyền với sự phụ tá của Ngân, đạo lật đó đã bị vùi sâu trong quên lãng. Vậy cái đại thảm hoạ kiêu binh, kiêu tướng “quân đội là cha quốc gia” và các tướng tá bất tài, luồn cúi, hèn nhát, nhưng lại ngông nghênh, hách dịch,ăn bẩn, nuôi lính ma, lính kiểng, ăn chận cả tiền tử tuất cô nhi quả phụ, hiếp đáp quần chúng thế cô...ngày càng bành trướng mạnh ở miền Nam đã bắt nguồn chính từ việc Thiệu và Ngân “ngâm tôm” đạo luật này của Thượng Viện. Bây giờ Ngân đổ lỗi đó cho ai được?!

GHI CHÚ: Bạn đọc muốn biết tường tận hơn, xin đọc thêm bộ BMHTCTMN, gồm 3 quyển, của Đặng Văn Nhâm, đã phát hành.

 

THIÊN ĐỊA LÔ TRUNG THỤC HỮU TÌNH?

Viết đến đây, đau lòng, bèn dùng 2 câu thơ của Tản Đà mà than:

Giang hà nhật hạ nhân giai trọc,

Thiên địa lô trung thục hữu tình ?...

Nước sông ngày càng cạn, người đời đều ô trọc, trong trời đất này biết còn ai là kẻ có tình? Tình đây là tình đối với giang sơn, đất nước, với đồng bào ruột thịt!

Nhìn quanh ở hải ngoại, nơi nào ta cũng chỉ toàn nhìn thấy những hạng người điêu sảo, lưà gạt quay quắt, háo danh dổm, tham tiền của phi nghiã... Hạng người này thường núp dưới đủ mọi thứ danh nghiã lớn lao: chính nghiã quốc gia, chống Cộng kiểu xỏ lá phường tuồng (trong khi CS nằm vùng kề sát bên lại cúc cung vái lạy!), hoặc mượn chiêu bài “quân đội” để diễn những trò lố lăng ti tiện có tính cách làm xú uế thêm danh xưng quân đội... mà chẳng một ai dám hé môi, khiến cho các cộng đồng người Việt tị nạn trở thành một tập thể tạp nhạp, sống trong bầu không khí ô nhiễm nặng nề.

Riêng tôi, khi viết bài này – cũng như khi bắt đầu viết bộ sách “BÍ MẬT HẬU TRƯỜNG CHÍNH TRỊ MIỀN NAM” gồm 3 quyển, dày trên 2000 trang, - tôi đã cảm thấy lòng đau như cắt. Cái đau này có thể ví như cái đau của một sản phụ khi sắp cho một “con người” ra chào đời, sau một thời gian dài cưu mang thai nghén nặng nề. Nỗi đau ấy gồm cả nỗi hiểm nguy cùng cực của nghiã vụ “sáng tạo” thiêng liêng, cao quí nhất do Thượng Đế ban cho người sản phụ, có lẽ chỉ một mình người sản phụ ấy hay biết mà thôi. Ngoài ra, không một ai chia sẻ được!

Nhưng thực là huyền thoại, chẳng khác nào như chuyện Bá Nha với Tử Kỳ, trong những liên hệ riêng tư, tôi đã được nhiều bạn đọc đa số là giới trí thức trẻ bốn phương khích lệ. Trong số đáng kể nhất có một đồng nghiệp đàn anh đã từng lăn lộn suốt cuộc đời trên trường văn trận bút, một hôm mới đây đã nói với tôi qua điện thoại: “Tôi biết anh rất đau lòng khi phải vạch trần hết tất cả những thối tha bỉ ổi của chế độ đệ nhị CH đã khiến cho miền Nam bị mất dễ dàng vào tay CS!”...

Lời ấy chứng tỏ anh là “kẻ hữu tình” đã thấy suốt ruột gan tôi. Vâng, tôi có dau lòng thật. Thực sự, khi phải chọn cuộc sống lưu vong hải ngoại, ở một nơi “hẻo lánh” xa hẳn những cộng đồng tị nạn VN đông đảo, hơn phần tư thế kỷ qua, tôi đã âm thầm nuôi dưỡng hy vọng nơi định lý “thất bại là mẹ đẻ thành công”, theo lý giải của khoa “tâm thần bệnh học về sự thất bại” (Psychopathologie de l’échec).

Tôi mong đợi được nhìn thấy sự tiến bộ của các giới đồng bào tị nạn khắp nơi hải ngoại, nhất là được chứng kiến những hành động giác ngộ, thức tỉnh của các hàng cựu tướng tá trong quân đội VNCH, những kẻ đã từng đóng vai trò lãnh đạo quốc gia, có trách nhiệm bảo vệ đất nước và dân tộc, sau khi đã rút tiả được những bài học thất bại chua cay của chính họ.

Bởi theo khoa “Psychopathologie”, thì sự thất bại vốn mang đặc tính cải cách thường là triệu chứng, báo hiệu cho một sự thay đổi hoàn toàn(La défaite est novatrice). Trong khi đó sự thành công vốn bản chất là bảo thủ (la victoire est conservatrice), một triệu chứng báo hiệu sự thoái hoá.

Đọc lịch sử, tôi nhận thấy đã có nhiều bậc danh nhân tên tuổi lẫy lừng khắp đông tây kim cổ, tài trí hơn người, nhưng đã dám can đảm tự chọn cho mình một “sự thất bại cao quí vô song, có giá trị vĩnh cửu”.

Đó là Hannibal đã kịp dừng chân quay lại trước sự sẵn sàng hiến dâng của thành Roma. Đó là đạo quân Ê Cốt (Écossai) của Charles Edouard Stuart đã khước từ không vào chiếm Luân Đôn, mặc dù ông đã chinh phục được hoàn toàn. Đặc biệt hơn cả là hành động của Đại đế Napoléon đã tuyên bố rút quân khỏi Waterloo, trong khi cuộc chiến còn đang tiếp diễn và ông đã nắm chắc trong tay phần thắng lợi khả quan. Trong đời mấy ai đã hiểu được lòng của các bậc danh nhân ấy?! Họ đã dám chọn cho mình một sự “thất bại cao quí, vĩnh cửu”, chứ không phải là một sự thành công vẻ vang nhất thời như Hồ Chí Minh, Lê Duẫn và Văn Tiến Dũng năm 1975!

Ngược lại, nhìn qua giới danh ca, minh tinh màn bạc, “những kẻ đã thành công nhanh chóng”, với khối tiền rừng bạc bể, ta lại có dịp chứng kiến nhiều thảm cảnh sa đoạ, đáng thương tâm, như ăn chơi trác táng vô luân, nghiện ma túy, nghiện rượu, cùng với những cuộc tự sát hoàn toàn vô nghiã lý. Những kẻ đó đã không đủ tầm vó để kham nổi gánh nặng củasự thành công, hay chiến thắng, nên đã tri tình tạo nên sự thảm bại cho mình.

Từ đó, rút tiả những bài học của quá khứ, đặc biệt nhất là bài học ngày 30.4.75 của chính dân tộc VN cả 2 miền Nam-Bắc, chúng ta là những chứng nhân lịch sử, đã nhận thấy rất rõ ràng cuộc chiến thắng của CSBV chỉ củng cố và tăng cường thêm những tập tính cũ. Mà tập tính của CSBV là gì, nếu không phải là sự dã man, tàn ác, tham ô, gian trá, điêu sảo, trấn lột và nghèo đói... Hai mươi sáu năm sau cuộc chiến thắng, giới lãnh đạo CSBV ngày càng đưa dân tộc vào tình thế hiểm nguy. Đối ngoại, VN ngày càng bị lệ thuộc sâu xa, bị trói buộc chặt chẽ thêm vào gót chân của cả tư bản Mỹ lẫn CS Tàu, về mọi mặt kinh tế, chính trị và quân sự. Đất nước VN ngày càng thụt lùi sau các nước chậm tiến khác trong vùng Đông Nam Á, như: Thái, Đài Loan, Nam Hàn...

Về phần những kẻ thất bại hiện đang sống lưu vong trên các nước Âu Mỹ, tiêu biểu gồm các tẩu tướng như: Nguyễn Văn Thiệu, Dương Văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên, Nguyễn Khánh... cùng với một số đông đảo cựu tướng tá của quân đội VNCH ngày xưa, sau 26 năm, họ đã làm nên được những trò trống gì theo như khoa “psychopathologie de l’échec” mà tôi đã nêu trên?

Thực đáng buồn thay, khoa phân tâm bệnh học ấy chỉ đúng cho mọi con người khắp bàn dân thiên hạ cả hoàn cầu, nhưng ngoại trừ dân tộc VN, ngoại trừ những kẻ đã từng cầm vận mệnh trên 25 triệu sinh linh miền Nam!!!

Tất cả các tướng tá “thất bại” kể trên chẳng những đã không rút tiả được một bài học nào cho bản thân, để tiến lên một cuộc sống xứng đáng hơn, mà họ vẫn giữ thói “ngưạ quen đường cũ”, mù quáng tiếp tục thói kiêu binh, vẫn còn mơ mộng thời vàng son “quân đội là cha quốc gia”, vẫn tiếp tục nhân danh “cựu quân nhân” một đạo quân thất trận nhục nhã, đau đớn và đã bị khai tử bằng một lệnh đầu hàng vô điều kiện của một viên tướng nằm vùng cho địch quân, để lường gạt tiền bạc, hà hiếp thường dân cô đơn yếu thế ở hải ngoại!

Trước cảnh tượng đó, càng mong đợi và càng hy vọng bao nhiêu, càng ngày tôi càng thêm thất vọng, chán chường bấy nhiêu.

Tóm lại, để kết thúc loạt bài này tôi xin gửi đến bạn đọc tất cả tâm tư khắc khoải của người cầm bút cô đơn.

Đặng Văn Nhâm

         


 

Copyright (c) DaiChung News Media 2002