Đại Chúng số 79 - phát hành ngày 1/8/2001

Duramax

Giới Thiệu
Sách Mới


HIỆN TƯỢNG CÒ MỒI

Phụng Hồng

Gần đây hiện tượng cò mòi đã thấy xuất hiện liên tục ở quốc nội cũng như quốc ngoại. Đó là một lá bài tẩy cuối cùng mà cộng sản Hà Nội (CSHN) xử dụng như một chiêu bài lừa bịp để đem ra tố xả láng trong một canh bạc thua thiệt để tự cứu mình, những tên đầu sỏ chóp bu ở Bộ Chính Trị, cứu đảng và chế độ đang trên đà sụp đổ.

Mấy chục năm về trước, Trọng Lang đã định nghĩa một cách hài hước và sâu sắc về danh từ “cò mồi” hay “cu mồi” trong cuốn “Phong Lưu Đồng Ruộng”. Đó là những con vật được chủ đem ra “làm vật tế thần” để “chiêu dụ” những con vật đồng loại sa vào bẫy đang giương sẵn. Những con vật này thường “bất tài vô tướng” ở trong một bầy chim lớn được nuôi lâu ngày, không giúp ích gì cho chủ trong việc trang trí phong cảnh, chỉ chờ ngày chủ “tẩm bơ để quay” mà thôi. Nhưng nó lại có một láu vặt là “gáy dài hơi” và “kêu lớn”. Vì thế trước khi cho nó “về bên kia thế giới” bèn nghĩ cách đem nó ra treo vào các lồng bẫy ở đồng ruộng để bắt các loài chim khác. Những con chim khác đang bay trên bầu trời cao rộng khi nghe những con “cu mồi” này gáy to bèn sà xuống đớp mồi, thế là mắc bẫy!

CSHN rất gian manh xảo quyệt. Và chúng đã xử dụng những tên có chút địa vị, có chút danh tiếng để làm cò mồi. Nếu cần, chúng có thể hy sinh những tên “tai to mặt lớn” vào một công tác có lợi cho đảng, theo đúng chính sách “vắt chanh bỏ vỏ”.

Ngày nay, trước cao trào lật đổ chế độ cộng sản ngay chính những nuớc cộng sản; trước những biến chuyển chính trị dồn dập đem lại phần thắng chắc chắn cho phe quốc gia tự do, CSHN đã hoảng hốg trước viễn ảnh đen tối bần cùng đói rách của 65 triệu người dân vô tội ở trong nước đang quằn qiaụ trong “trại tế bần khổng lồ” mà tương lai rùng rợn sẽ không thể tránh khỏi, chúng đã giả bộ bắt chước quan thầy cũng hô hào “đổi mới”, “cởi mở”. Những trò hề cũ rích này đã không được ai đếm xỉa tới vì chúng đã lòi bộ mặt thật “chồn cáo đội lốt hươu”! Chúng bèn lật lọng quay ra dùng chính những tên cán bộ trung kiên từ trước đến nay đã hô lớn “một lòng trung kiên đi theo đảng ta(!)”, với những công thức mới sẵn, nói và làm theo sự chỉ đạo của chúng, với ý đồ hòng lôi cuốn, mua chuộc những người nhẹ dạ, khỏa bảng chồn lùi, trí thức mất gốc, chính trị hoạt đầu, đón gió cơ hội hầu kiếm chút cơm thừa canh cặn trong cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại. Chúng đã không từ bỏ một mưu thâm quỷ kế nào có lợi cho chúng mà không vồ lấy trên cả hai lãnh vực văn hóa và chính trị. Thất bại chua cay ở mặt trận này, chúng đã bày ra keo khác, mục đích nhằm cốt làm cho tập thể người quốc gia chống cộng luôn bị động, trong tình trạng cố thủ chống đỡ những đòn thâm độc của chúng.

Thực ra trò hề này không mới lạ gì đối với người thức giả. Còn nhớ sau năm 1975 trong những giờ phút tranh tối tranh sáng, để lấy lòng những người trí thức bị kẹt lại đang hoang mang dao động tột độ, CSHN đã đưa ra chiêu bài “trung lập miền nam”. Để đánh lừa dư luận, chúng đã bày đặt ra “Hội Trí Thức Yêu Nước” quy tụ những phần tử đối lập cũ như Lý Quý Chung, Lý Chánh Trung, Ngô Công Đức, Dương Văn Ba và những Dân Biểu thân cộng nằm vùng trong chế độ cũ. Chúng đã không bế tụi này bằng cách cho tục bản tờ Tin Sáng để lôi cuốn quần chúng nhẹ dạ chờ thời (nên nhớ rằng dưới chế độ cộng sản không hề có chuyện tự do báo chí và ngôn luận đối lập vì thế tờ Tin Sáng sau hai năm “gáy như của mồi” với những bài “nâng bi rẻ tiền”, “đối lập cuội” đã phải chết yểu, thì cũng là điều “dễ hiểu thôi”! Chỉ có tờ Sài Gòn Giải Phóng là còn tồn tại mãi đến bây giờ vì là báo của CSHN!) Chúng đã dụ dỗ các linh mục dòng Đa Minh để được cúng trụ sở Câu Lạc Bộ Phục Hưng cũ dùng làm trụ sở Hội Trí Thức Yêu Nước. Chúng đã thành lập Hội Giáo Sư Đại Học Yêu Nước để bày trò sinh hoạt hàng tuần tại trụ sở này hòng dễ bề kiểm soát  và khống chế các giáo sư trường Y Khoa và Luật Khoa hoặc theo rõi những người đang còn tư tưởng chống đối, chưa dứt khoát như BS TNN (1), cố BS Nguyễn Đình Cát (2), LS Phan Tấn Chứ (3) v.v...

Hai năm sau, cuối năm 1977, thấy tình hình đã tạm ổn định, dễ bề thao túng, chúng bắt đầu trở mặt đàn áp trí thức miền Nam để dằn mặt. Điển hình nhất là vụ BS Lê Kính có phòng mạch ở chợ Tân Định. Chủ động trong vụ này là tên Nguyễn Du Cương(4), bí danh Ba Trực, giám đốc sở ý tế thành phố. BS Kính là một vị thầy thuốc rất giàu lòng bác ái, lương tâm chức nghiệp, lớn tuổi và rất được bệnh nhân quý trọng. Phòng mạch rất đông khách. Nhưng chỉ vì bác sĩ Kính không chịu hợp tác với Ủy Ban Nhân Dân Sài Gòn do Sáu Dân Võ Văn Kiệt làm chủ tịch nên đã bị trù. Ba Trực đã ngụy tạo ra nhiều lỗi lầm để vu oan cho bác sĩ Kính, xúi dục xách động một số bệnh nhân có mồi đứng ra tố cáo, bêu  nhục bác sĩ Kính, để rồi cuối cùng đi đến một kết luận rất máy móc là “đóng cửa vĩnh viễn phòng mạch”.

Được đà, chúng đã thuê một số văn sĩ cũ viết bài công kích những bác sĩ cũ đã từng có uy tín với sinh viên và người dân miền Nam. Nạn nhân của sự hạ bệ này là GS TNN và GS Nguyễn Đình Cát ở Bệnh Viện Bình Dân và một số giáo sư ở Đại Học Dược Khoa và Văn Khoa Sài Gòn. Sở dĩ chúng nhắm vào 2 vị này trước là vì học đã có thái độ chống đối ra mặt hay chỉ trích, phê phán những lỗi lầm trầm trọng của những tên y sĩ dốt những nát ở trường Y Hà Nội vào tỏ vẻ dạy đời nói dóc ăn tiền. Nhưng chúng chưa kịp làm mạnh thì một số đông sinh viên cũ và những giáo sư tên tuổi thuộc Viện Đại Học Sài Gòn họp nhau lại cử đại diện lên gặp Võ Văn Kiệt để trình bày nguyện vọng, phản đối những vụ bạo hành, khủng bố tinh thần nhóm phường.

“Tát má này 2 cái và xoa dịu má kia 1 cái”, đó là chiến thuật cố hữu của CSHN. Chẳng đặng đừng, Kiệt đã phải ra “nghị quyết” cho các bác sĩ như công và tư mở lại phòng mạch ngoài giờ làm việc để “gia công”. Cũng như các giaó sư ở các trường công và tư thục có thể dạy thêm giờ buổi tối để kiếm thêm tiền “lao động sản xuất”.

Kiệt lại còn gạ gẫm một số giáo sư có thành tích nằm vùng cũ như  Châu Tâm Luân, Trần Kim Thạch, Phạm Hoàng Hộ, v.v... giở trò “chống đối cuội” bằng cách viết bài “sửa sai nhà nước” và “đề nghị xây dựng” cấp bộ chính quyền cũng nhuj cấp bộ đảng đã bắt đầu hủ hóa.

Đến khi phong trào vượt biên lên cao độ vào năm 1979, các bác sĩ, giáo sư, các chuyên viên ở các bệnh viện giảng huấn như Bình Dân, Chợ Rẫy, Đô Thành, Nguyễn Văn Học, đã bỏ nước ra đi để làm lại cuộc đời thì Ban Bí Thư Thành Ủy đã bắt đầu chới với như ngồi trên đống lửa, bèn làm đủ mọi cách để xoa dịu tình hình. Với tư cách là Bí Thư Thành Ủy, Kiệt đã cùng Mai Chí Thọ, Giám Đốc Sở Công An Thành Phố ra thông cáo xác nhận: “Trí thức miền Nam là vốn quý để xây dựng xã hội chủ nghĩa”, trái với luận điệu của Phạm Văn Đồng đã từng nói “Trí thức không đáng giá bằng cục phân” (!?)

Nhưng người bỏ nhiệm sở trốn đi vẫn tiếp tục đều đều và đông hơn bao giờ hết. Chúng nó đành phải bó tay ngồi nhìn. Sau 2 năm, những người ở lại đã hiểu CSHN quá nhiều. Do đó sử ra đi là một kết quả tất nhiên. Đấy là chưa kể những đợt ‘học tập cải tạo” được tha về từ năm 1976. Những thành phần này đã từng có tiếng là “có công với cách mạng trong thời gian chống Mỹ cứu nước” được các  gia đình cách mạng bảo lãnh. Nhưng về hôm nay, ngày mai đã “biến mất” rồi! Một số khác tự nguyện đứng ra làm cò mồi, nói tốt về chế độ “xiết họng chẻ nanh”, nhưng rồi cuối cùng cũng “dọt” luôn vì chịu không nổi sự áp bức và khủng bố tinh thần của công an phường.

Những tên “cò mồi cơ hội” này thực ra không hiếm hoi gì ở miền Nam từ trước. Thực vậy, gần đây dư luận và báo chí Hoa Kỳ cũng như quốc tế đã phanh phui ra những vụ “nội tuyến cò mồi” rất động trời dưới trào Nguyễn Văn Thiệu. Chính những tên chính khách tai to mặt lớn, ăn nói ồn ào nhất lại là những tên phản quốc, nối giáo cho giặc, đâm sau lưng chiến sĩ QLVNCH hơn ai hết! Từ một Huỳnh Văn Trọng làm nội tuyến cho CSHN ngay tại trong lòng Dinh Độc Lập (ai cũng biết Trọng là một người thân tín của Thiệu. Một ông tổng thống của một quốc gia chống cộng hàng đầu lại đi tin dùng một tên cán bộ Việt cộng, thì thử hỏi trên thế gian này còn có tội nào với lịch sử được sánh bằng? Không trách miền Nam đã bị thua một cách nhanh chóng là phải!) (5), đến một Phạm Xuân Ẩn, quân hàm Đại Tá Việt cộng, lại ngang nhiên đội lốt nhà báo Time, mặc thường phục, sống phây phây cơm no bò cỡi giữa thanh thiên bạch nhật Sài Gòn, ung dung đánh tin mật về Hà Nội, báo cáo với quân ủy Võ Nguyên Giáp và Văn Tiến Dũng những bí mật quốc phòng hành quân của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, cho đến ngày 30.4.1975 mới xuất đầu lộ diện lòi bộ mặt thật, thì thử hỏi Nha Tổng Giám Đốc  Cảnh Sát Đô Thành và Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát ở đâu? nếu các ông còn chút liêm sĩ, hãy can đảm ra trước tòa án lịch sử để đến tội. (6)

Lại còn mới đây nữa, Larry Engelmann đã tiết lộ một tin động trời rất hi hữu là tên Dân Biểu Đinh Văn Đệ, chủ tịch ủy ban quốc phòng Hạ Viện Quốc Hội Đệ Nhị Cộng Hòa đã bán tài liệu tối mật quốc phòng cho Mặt Trận Giải Phóng (7). Một ông chủ tịch ủy ban quốc phòng của một Quốc Hội chống cộng lại đi làm tay sai cò mồi cho giặc để lảm cho nước sớm mất vào tay địch thì thử hỏi co trang sử nào hoen ố ô nhục hơn? Ông Đệ bay giờ ông ở đâu? Ông đáng ăn 100 thùng ....cứt!

Những tên cò mồi này – hay nói một cách khác đúng hơn – hiện tượng cò mồi ở thời nào cũng có và bọn CSHN đã tận dụng khia thác triệt để. Một khi hiện tượng cò mồi này thất bại vì đã lỗi thời, chúng lại bầy đặt đưa ra những cò mồi khác giá trị hấp dẫn hơn. Như những vai hề trên sân khấu trong những tấn tuồng trung, nịnh. Một khi vở kịch chấm dứt, lớp son phấn trên mặt được chùi đi, tên hề lại hiện nguyên hình của một thằng người chỉ đáng ghê tởm, phỉ nhổ mà thôi.

Theo tiến trình quy luật ấy, gần 3 năm nay, CSHN đã thay đổi chiến lược và tung ra những cò mồi mới với những lời nói, lập luận nhuốm màu “đối lập, phản kháng chế độ XHCN,hòng đánh lạc hướng dư luận, che mắt thiên hạ đường lối bóc lột sát nhân của mình. Trên hai mặt trận tư tưởng và chính trị, chúng đã đưa ra những tên quen thuộc, có chút uy tín trong nước  để dễ bề lôi cuốn sư chú ý của thế giới.

Gạt ra ngoài những tên thợ viết, văn nô hạng bét, đã từng làm cò mồi rẻ tiền nhưng đã bị lột mặt nạ kịp thời mà tôi không muốn nhắc đến ở đây nữa chỉ thêm bẩn ngòi bút, như Lê Lựu, Ngụy Ngữ, Dương Thu Hương, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Huy Thiệp, và một số tên bồi bút khác, tôi chỉ muốn để cập đến hai tên tiêu biểu cho hiện tượng cò mồi gần đây nhất mà một số con buôn chính trị phản bội ở hải ngoại đang làm rùm beng thổi phồng một cách trắng trợn mà thiên chức con người không bao giờ cho phép làm. Đó là Nguyễn Khắc Viện và Bùi Tín.

Nguyễn Khắc Viện đã cầm đầu nhóm có mồi đại diện cho lãnh vực văn hóa tư tưởng. Thực ra bên cạnh Viện còn có Phan Đình Diệu và những tên tay sai khác trong Viện Khoa Học và Sử Học Hà Nội. Người có chút hiểu biết, nhất là những ai đã từng bị kẹt lại sau 30-4-1975, đã từng bị đi cải tạo, đã từng đến dự những buổi nói chuyện về lý thuyết Mác Lê với Võ Nhân Trí, Nguyễn Văn Hưởng, Tôn Thất Tùng ở Hội Trí Thức Yêu Nước đường Nguyễn Thông, Sài Gòn, chắc sẽ phì cười khi hay tin Viện, trung kiên từ đầu đến cuối với chủ thuyết cộng sản đã dễ gì thay đổi lập trường, thái độ một sớm một chiều như ta thay áo? Vậy Viện là con người thế nào? Người miền Nam chỉ biết lai lịch Viện rất phiến diện sau ngày thất thủ; vì Viện chỉ xuất hiện đột biến qua những loạt bài với lối hành văn rất kêu trên tờ nhật báo Nhân Dân, cơ quan độc nhất của CSHN, với chủ đề khen ngợi Hồ Chí Minh, đề cao đảng cộng sản là “đuốc sáng soi đường, đỉnh cao trí tuệ loài người” (!?). Để làm sáng tỏ lập luận của mình, Viện còn đả kích Nguyễn Thái Học và VNQDĐ kịch liệt cùng những nhà cách mạng chân chính khác như  Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Phạm Hồng Thái, Nguyễng Tường Nam, Nguyễn Hải Thần .... (sau này, để nâng bo Tố Hữu, văn nô Hoài Thanh (8) cũng bắt chước Viện chê bai văn thơ Phan Sào Nam là hủ lậu, yếm thế, tiêu cực.) Đối với Viện, chỉ có Hồ Chí Minh và đảng cộng sản là cứu cánh của dân tộc (!). Viện là bác sĩ, nhưng không bao giờ viết về y học.

Bàn về con người Viện, Linh Mục Cao Văn Luận , nguyên viện trưởng viện Đại Học Huế đã mô tả chi tiết tỉ mỉ trong chương “Cuộc hội kiến với một lãnh tụ cộng sản Nguyễn Khắc Viện” (9) ở cuốn “Bên Giòng Lịch Sử” như sau:

“...Trong những nhóm chống đối việc trở về chấp nhánh của ông Diệm mãnh liệt nhất là nhóm Việt kiều cộng sản hay thân cộng mà lãnh tụ là Nguyễn Khắc Viện.

“Viện là người Hà Tĩnh đồng quê với tôi, đã sang Pháp học Y khoa vào khoảng 1936. Lúc tôi ở Pháp tôi đã quen thân với Vienä nhìêu. Vào khoảng 1942, Viện cùng với 3 sinh viên khác, cùng người Hà Tĩnh là Lê Thiêm, Hoàng Xuân Nhị và Trần Du, vì tưởng rằng Đức Nhật sẽ thắng Pháp và Đồng Minh, nên đã trốn sang Đức với mục đích nhờ Đức giúp thành lập một mặt trận chống Pháp giành độc lập cho Việt Nam. Nhưng khi Đức bại trận thì họ lại trở về Paris và khi Hồ Chí Minh sang Pháp điều đình với Pháp thì họ đã nhập hàng ngũ cộng sản ngay và, từ đó, Viện đã trở thành lãnh tụ hăng say và đắc lực của nhóm Việt kiều cộng sản.

“Khi nghe tôi trở lại Paris để vận động cho ông Diệm trở về nước chấp chánh Viện đã tìm cách gặp tôi để khuyên tôi bỏ ý định ấy. Một ngày sau khi tôi đã gặp ông Diệm và Nguyễn Đệ, Viện đã điện thoại cho tôi và xin đến gặp tôi tại nhà ông Auberty vào 9 giờ tối hôm ấy...

“Nghe tôi báo tin sẽ tiếp một cán bộ cộng sản cao cấp tại nhà, ông Auberty hoảng hồn, lo lắng ra mặt, nên mặc dù tôi đã giải thích kỹ với ông, ông ta vẫn quyết định hủy bỏ cuộc đi chơi tối nay để:

“- Tôi sẽ ngồi canh chừng ở phòng bên cạnh trong khi cha tiếp “tên cộng sản”

“Đúng giờ hẹn, Nguyễn Khắc Viện mang theo hai người tùy tùng đến và tôi tiếp bọn Viện ở phòng khách...” (10)

Sau đó là cuộc bàn cãi với Viện xoay quanh đề tài chí sĩ Ngô Đình Diệm và lá bài Mỹ.

“...Viện thật thà đáp:

_ Thưa cha đúng vậy, sở sĩ  tôi phải xin gặp cha là vì nếu cha có đưa ông Diệm về nước lúc này, tôi e hậu quả sẽ rất tai hại .... Như vậy chắc cha đã thấy rõ ràng ông Diệm lâu nay là lá bài được Mỹ ủng hộ. Nếu đưa ông Diệm về nước ắt có Mỹ theo sau. Nước ta đã kháng chiến chống Pháp, nay ông Diệm đưa Mỹ vô dựa vào thế lực Mỹ, e phải có nội chiến khốc hại hơn nữa.

“_ Bảo Đại được Pháp ủng hộ, Hồ Chí Minh thì được Nga và Trung Cộng ủng hộ. Nếu phải so sánh chọn lựa giữa Tàu, Pháp, Mỹ, tôi thấy Mỹ còn chưa nguy hiểm bằng Tàu và Pháp ...Với Mỹ, chế độ thực dân kiểu cũ đã cáo chung. Mỹ đã thắng Nhật, rồi lại giúp Nhật phục hưng kinh tế mạnh mẽ. Mỹ đã vào Âu Châu, rồi cũng lại giúp Âu Châu. Aùp lực của Mỹ, nếu có theo chân ông Diệm dồn vào Việt Nam, cũng chỉ là một thứ áp lực kinh tế. Còn bên các anh, con đường nguy hiểm hơn nhiều vì sau lưng các anh là Trung Cộng. Vì quyền lợi của Tàu, Mao-Trạch-Đông sẽ phải thôn tính Đông-Nam-Á.

“Chuyện cha lo sợ không thể xảy ra được vì Mao chủ tịch là một người cộng sản chân chính không thể đi ngược lại chủ nghĩa Mác-Lê được.

“- Điều anh  nói, tôi thấy cần phải xét lại. Ti-Tô cũng từng được các anh gọi là cộng sản chân chính, vậy mà tại sao bây giờ Ti-Tô chống lại Nga, tại sao bây giờ Nga mạt sát Ti-Tô. Ai cũng biết chỉ là vì quyền lợi quốc gia mà thôi. Nga dù là cộng sản vẫn không từ bỏ cái quyền lợi mà họ mưu tính thừ thời Nga hoàng, là chiếm vùng Balkan. Và Ti-Tô, vì chủ quyền Nam Tư phải chống lại sự xâm chiếm này. Có gì bảo đảm rằng sự chân chính của Mao với chủ nghĩa cộng sản hơn được Ti-Tô và Sít-Ta-Lin đâu...” (11)

Trích dẫn cuộc đối thoại gay cấn giữa hai người đứng ở hai chiến tuyến khác nhau như 2 thái cực, tôi chỉ muốn chứng minh thêm rằng bản thân Viện là một người cộng sản giáo điều, chỉ biết tin vào một lý thuyết độc nhất đã ăn sâu vào cốt tủy không còn lay chuyển được. Viện đã cuồn tín chủ nghĩa cộng sản , tin tưởng mê muội vào lý thuyết Mác-Lê từ mấy chục năm qua. Những ai đã từng đọc bài của Viện viết đều thấy điểm này. Viện học y khoa, nhưng sau 1975 người ta chưa hề thấy Viện hoạt động trong ngành. Những ai ở Sài Gòn trong thời gian này chắc còn nhớ Viện đã hô hào cổ động cho việc đi kinh tế mới để bảo vệ sức khỏe theo phương pháp tự nhiên (?), cổ súy đi lao động chân tay hằng ngày để trị bệnh kinh niên như ho, suyễn (?) Viện còn táo bạo hơn nữa khi hô hào mọi người bớt dùng âu dược để trị bệnh mà chỉ nên dùng thảo dược (cỏ, cây, thực vật đặc chế...) và trở về với nền y học dân tộc (thoái hóa?!). Ví dụ khi bị sốt thì nên dùng nước sôi xông để hạ nhiệt.

Người ta đã bắt đầu chú ý đến Viện hơn khi y viết một loạt bài nhan đề “Sen và Bùn” đăng nhiều kỳ trên nhật báo Nhân Dân. Viện đã thóa mạ các gia đình sĩ quan chế độ cũ có chồng con đi cải tạo; và cho đó là một hình phạt quá nhẹ (?) so với tội lỗi nợ máu đối với cách mạng (Tội gì? Vì cấm súng bảo vệ miền Nam và bắn đầu thằng cán binh Việt cộng ư? Thật là phi lý!) Ngoài ra Viện còn vu khống bịa đặt  những chuyện giả tạo người vợ có chồng đi cải tạo lâu ngày bị dồn nén nên đã lấy những thằng công an phường ..., rồi cho đó là một sự chọn lựa anh hùng (!) Y đã quá quắt hơn nữa khi ngụy biện hàm hồ thơ tù của Hồ Chí Minh và đề cao rẻ tiền tên này khi mổ xẻ cuộc đời cách mạng của hắn.

Chưa đủ, trong đại hội Đảng Cộng sản lần thứ IV (1976), Viện đã trình bày một phương pháp chữa bệnh không cần thuốc mà Viện khoe rằng mới sáng tạo bằng cách ngồi tọa thiền. Thực ra, Viện đã cóp nhặt theo phương pháp “Yoga” rồi đổi tên gọi và biến cải cách thực hành. Người hiểu chuyện hồi đó đã cho Viện là một tên “ăn cắp” và “hiếp dâm” y học!

Với một quá khứ đầy cộng sản tính như vậy, với một quá trình tích cực hoạt động của một đảng viên như Viện thì thật khó mà có chuyện “phê phán sửa sai” nhà nước cộng sản một cách trung thực như một số báo chí hải ngoại đã loan tin trước đây và mọi người đã lầm tưởng một cách ngây thơ. Chẳng qua Viện chỉ là một tên cò mồi không hơn không kém mà bọn đầu sỏ chóp bu CSHN tung ra để thăm dò thế giới tự do hòng kiếm “chút cháo”. Thế thôi!

Có lẽ vì quá chua cay, nhục nhã trong vụ “cò mồi Nguyễn Khắc Viện” nên CSHN lại tung ra “cò mồi gộc” Bùi Tín chăng? Nhắc đến Bùi Tín là cả một kinh nghiệm nhục nhã nhất của người quốc gia ngày 30-4-1975. Những ai đã theo rõi đài Sài Gòn và cuộc tiến quân chiếm Dinh Độc Lập sáng 30-4-1975 của đại đội xe tăng PT 76 do tên đaị úy Bùi Quang Thận chỉ huy chắc đã biết rõ tông tích của Tín từ đó. Ngồi trên xe tăng cùng với Thận, còn có Trần Ngọc Hiền (12) và Bùi Tín với tư cách là chính trị viên của tiểu đoàn cơ động (nên chú ý là mỗi đơn vị quân đội Việt cộng đều có một tên chính trị viên đi kèm tên chỉ huy trưởng quân sự để truyền lệnh trung ương đảng). Tín đã ra lệnh cho Thận không cho xe tăng vào cổng giữa đã được tướng Dương Văn Minh ra lệnh mở sẵn mà húc đổ một trụ vôi của cổng chính để làm bằng cớ là Dinh Độc Lập đã bị đánh chiếm chứ không phải do Dương Văn Minh và nội các Vũ Văn Mẫu “mời” vào. Khi lên đến lầu một, Tín lại ra lệnh cho Thận bắn một loạt tiểu liên AK 47 để thị uy coi như cuộc giải phóng miền Nam đã kết thúc lúc 11:30-4-1975. Sau đó Tín đã vào phòng khánh tiết hỗn xược và hách dịch hỏi những người đang đứng chực sẵn như Lý Quý Chung, Dương Văn Ba, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, quyền tổng tham mưu trưởng đúng 3 tiếng đồng hồ thay thế trung tướng Vĩnh Lộc đã đào tẩu từ khuya và đồng bọn các dân biểu nằm vùng, các tay chân cận thần trong văn phòng của Dương Văn Minh:

- Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu là ai? Hãy bước ra!

Sau khi nghe hai ông này lên tiếng và nói đến “bàn giao chính quyền”, Tín bèn kêu căng nói lớn:

- Không có bàn giao chi hết! Các anh còn gì nữa mà bàn giao? Các anh chỉ có việc đầu hàng vô điều kiện mà thôi!

Rồi Tín rút trong túi áo một tấm giấy đã viết sẵn trao cho Trần  Ngọc Hiền bảo đưa cho Dương Văn Minh ký vào coi như một văn kiện đầu hàng của kẻ chiến bại.

Một trung tá thuộc Lữ Đoàn 3 Dù đang còn cầm cự với Việt cộng sáng đó tại ngả tư Bảy Hiền khi được tin này đã quá uất ức, khóc không được đến nỗi phải hộc máu mồm. 5 phút sau đó, ông đã rút súng colt 45 tự bắn vào đầu 3 phát tự tử!

Những năm sau đó, Tín đã viết nhiều bài xã luận công kích chế độ miền Nam cũ, công kích chính sách thực dân mới của Hoa Kỳ, công kích tội ác Mỹ Ngụy đã dội xuống miền Bắc 15 triệu tấn bom... công kích tàn dư tệ trạng xã hội tha hóa của Mỹ Ngụy để lại Sài Gòn. Tín đã không ngớt hằn học trút cả hận thù lên những sĩ quan, công chức trình diện học tập cải tạo ngày 15 – 6 – 75. Nhưng điều làm người ta chú ý đến Tín nhất là với bút hiệu Thành Tín, Tín đã viết một loạt bài đăng 16 kỳ trên nhật báo Nhân Dân tựa đề “Bức Tranh Từ Phía Bên Kia”, trong đó Tín đã thuật lại, và lẽ cố nhiên có nhiều lúc bịa đặt sân khấu chính trị miền Nam trước 1975 qua thời đại đệ I và đệ II Cộng Hòa. Tín đã đưa ra những lý do chủ quan tại sao miền nam thất thủ đưa đến sự chiến thắng của CSHN. Rồi qua những chương kế tiếp, Tín đã không ngớt bôi lọ và bêu nhục người lính VNCH. Tín đã dành một phần khá dài để nói về sự hèn nhát của trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, phụ tá tư lệnh Hành Quân Quân Đoàn III và chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, tư lệnh sư đoàn 6 KQ khi hai ông này bị bắt sống tại căn cứ Phan Rang.

Bùi Tín là một tên bất hiếu đãphản bội tổ tiên cha ông và gia đình. Cha y là một thượng thư của Triều Nguyễn, nghĩa là người không đội trời chung với Hồ Chí Minh, với đảng cộng sản, nếu hiểu theo lý trí thông thường. Nhưng y đã không cho đó là một mối thù mà còn hãnh diện đi theo bợ đỡ Hồ Chí Minh để được cất nhắc lên đến Đại Tá. Viết đến đây, tôi lại liên tưởng đến một trường hợp tương tự. Đó là bác sĩ Phạm Đức, con thứ của thượng thư Phạm Quỳnh. Ngày 20 – 8 – 45 sau khi cướp chính quyền xong ở Huế, ngay chiều hôm đó, bọn công an Trung Bộ đã ập đến tư thất của cụ Phạm Quỳnh ở Bến Ngự, bịt mắt cụ rồi dẫn lên xe hòm chở ra Hiền Sĩ (cách Huế 14 cây số về mạn Bắc) xử tử ngay tại chỗ với một lý di giản dị: “Việt Gian”. Aáy thế mà không hiểu sao Phạm Đức lại tình nguyện ở lại Hà Nội sau ngàyhiệp định Genève để phục vụ với CSHN. Phạm Đức đã cố tình quên mối thù “bất động đái thiên” đó chăng? Thật là khó hiểu khi mà con người như Phạm Đức đang còn chút hiểu biết để nhớ đến câu “uống nước nhớ nguồn”. Người ta đã không sao quan niệm nỗi dù có bất hiếu đến đâu chăng nữa, một người con không thể trở lại làm tôi mọi cho một kẻ đã nhẫn tâm giết cha mình (sau vụ bắn chết cụ Phạm Quỳnh mà không cần tuyên án, ở Huế từ đó đã truyền tụng 2 câu thơ lục bát như sau: “ Xe xanh cờ đỏ sao vàng, Dừng đâu giết đấy hai hàng lệ rơi!”). Kẻ viết bài này đã tự khóc thầm nhiều lần khi dự những buổi họp hội thảo ở Sài Gòn có bác sĩ Phạm Đức và đã nghe ông này hết lời ca tụng chế độ miền Bắc, công ơn giáo dục của Đảng đối với bản thân mình. Thật là không sao tưởng tượng nổi!

Và trong nổi niềm đau đớn nghẹn ngào tức tối đó, tôi muốn nói thẳng thừng với những tên đang mơn trớn Bùi Tín ở hải ngoại nói chung và ở Mỹ nói riêng: “Bùi Tín, người đã thú nhận vào miền Nam từ 1973, đã chụp hình Dinh Độc Lập, biết rõ lối đi chỉ là một tên cò mồi hạ cấp mà CSHN cố tình hy sinh để tự cứu. Hãy phỉ nhổ vào mặt nó. Lý tưởng cao đẹp của người quốc gia tỵ nạn cộng sản là lật đổ CSHN bằng vũ lực. Không chào hỏi, không bắt tay, không thương thuyết, không “nghị hội”, không nhân nhượng (5 không ). Xin đừng bắt tay kẻ thù vì đó là một hành động phản bội những người đã nằm xuống cho quý vị sống êm đềm ngày hôm nay. Mà chính những người đã bị kẻ thù giết đó lại là những cha, ông, anh, chị, em, vợ, con, chú, bác, cô, dì của quý vị. Xin đừng bắt tay kẻ thù vì đó là một hành động không thể tha thứ được. Xin đừng bắt tay kẻ thù cũng như đừng phát ngôn bừa bãi vô trách nhiệm, đừng có những hành động vô ý thức đầu độc thế hệ con cháu chúng tôi vốn là nạn nhân của chế độ CSHN, vì quý vị đang mang trong người giòng máu của con Hồng cháu Lạc. Xin hãy kiên tâm đợi ngày trở về Sài Gòn xé nát cờ đỏ sao vàng ở cột cờ Thủ Ngữ, kéo lại lá cờ vàng 3 sọc đỏ trên các kỳ đài suốt từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau”.

Người viết lại sực nhớ cách đây mấy năm, khi cuốn “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi” của Đỗ Mậu ra đời đã gây rất nhiều tiếng vang xấu trong cộng động Việt Nam ở Mỹ vì nội dung bẩn thỉu của nó, ông Nhị Lang đã phải viết một bài phân tích rất sâu sắc nhan đề “Hiện Tượng Đỗ Mậu”, trong đó tác giả đã đặt một nghi vấn hầu như sự thật là hiện nay đã có một nhóm cán bộ Việt cộng nằm vùng núp đàng sau cuốn sách kia. Và nhà văn Nhị Lang  đã báo động với cộng đồng là CSHN đang lợi dụng sự thắng thế của phe Dân Chủ ở quốc hội Mỹmà trà trộn tuyên truyền phản chiến. Phải chăng cò mồi Bùi Tín cũng nằm trong sách lược đó? Một lần nữa, tôi muốn đặt thẳng vấn đề này với những người có trách nhiệm.

Phụng Hồng

(Winter Park, Florida)

 ________________

Chú thích

  1. 1. BS TNN là giáo sư Y Khoa Đại Học Sài Gòn. Oâng từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền trước 1975. Oâng có nhiều công trình khảo cứu trong 2 lĩnh vực y học và văn học. Bị kẹt lại, ông làm y sĩ điều trị bệnh viện BD đến năm 1977 thì vượt biên với gia đình. Hiện định cư ở Mỹ.

  2. 2. Giáo sư bệnh lý Nhãn Khoa Y Khoa Đại Học Sài Gòn. Từng giữ chức vụ giám đốc BV Bình Dân và Chủ Tịch Ủy Ban Soạn Thảo Danh Từ Y Học thuộc Bộ Văn Hóa Giáo Dục VNCH. Sau 30-4-1975, bác sĩ Cát vẫn tiếp tục dạy tại trường Y Khoa đến năm 1986 thì qua Canada đoàn tụ gia đình. Mất tại đây năm 1987 vì chứng ung thư gan. Hưởng thọ 69 tuổi.

  3. 3. Nguyên Tổng Trưởng Văn Hóa Giáo Dục và Giáo Sư Đại Học Luật Khoa Sài Gòn. Luật sư toà Thượng Thẩm Sài Gòn. Sau năm 1975 bị Việt cộng hạn chế mọi hoạt động. Hiện ở Sài Gòn.

  4. 4. Cương nguyên là sinh viên dược khoa Sài Gòn, năm thứ 3 thi hoài không đậu nên được Việt cộng móc nối, đưa ra bưng hoạt động cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

  5. 5. Theo tiết lộ của tướng Trần Bạch Đằng, một người quan trọng trong bộ chính trị, nói với Larry Engelmann tác giả cuốn “Tears before the Rain: An oral history of the fall of South Vietnam” (Tiếng Khóc Trước Cơn Mưa: giai thoại truyền khẩu về sự sụp đổ của Nam Việt Nam), New York, Oxford University Press 1990” ...Huỳnh Văn Trọng, một cố vấn đặc biệt của ông Thiệu cũng là một người của chúng tôi. Oâng đã gặp Kissinger và Nixon và đã bàn luận với họ nhưng đồng thời Trọng đã làm việc với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam...” (trang 307)

  6. 6. Morley Safer đã dành trọn một chương “The Spy in Winter” (Người Gián Điệp Trong Mùa Đông) trong cuốn “Flashbacks on Returning to Vietnam” (Truyện Ký Ngày Trở Lại Việt Nam) để nói về tên tình báo Việt cộng Phạm Xuân Ẩn này. Trong một chuyến trở lại thăm Sài Gòn, tháng giêng 1989, Morley đã gắp Ẩn tại nhà riêng ở Phú Nhuận và đã nói cho Morley tất cả sự thật về y. Y theo CSHN từ năm 1944, xâm nhập miền Nam và làm việc tại trụ sở tuần báo Time, Sài Gòn từ năm 1965. Trong lúc đó y vẫn liên lạc thường xuyên với Hà Nội và Mặt Trận Giải Phóng. Nhờ có thế nhà báo ngoại quốc nên y đã ra vô dễ dàng với các căn cứ quân sự trọng yếu của QLVNCH cũng như Đồng Minh trong thời gian này và cung cấp tin tức hoạt động hàng ngày cho Hà Nội mà không bị tình nghi gì cả. ngày 30-4-1975 Ẩn đã đeo quân hàm đại tá Việt cộng vào Dinh Độc Lập để chứng kiến sự đầu hàng của Dương Văn Minh trước sự sửng sốt của mọi người từn gặp y ở Sài Gòn, nhất là giới truyền thông, trong đó có ký giả Hoàng Châu, chủ nhiệm nhật báo Độc Lập, trang 174 – 186, Random House, new York, 1990.

  7. 7. _ “Sau khi Phước Long thất thủ, TT Thiệu cử một phái đoàn dân biểu hạ viện quan Hoa Kỳ cầu viện quân cụ và tiếp liệu. Phái đoàn do DB Đinh Văn Đệ, chủ tịch Ủy Ban Quốc Phòng, cầm đầu. Đệ đã xin TT Ford viện trợ 300 triệu Mỹ kim về quân sự và báo cáo tình hình miền Nam lúc bấy giờ và khi TT Ford chăm chú nghe những gì Đệ nói thì biết rằng sẽ không còn làm gì được nữa để cứu vãn miền Nam. Khoa học phái đoàn trở về Việt Nam, Đệ đã làm phúc trình và đã gởi báo cáo đó về Hà Nội để tường thuật những gì đã xảy ra. Như ông đã thấy, ông Đệ là một dân biểu của miền Nam, nhưng ông cũng hoạt động cho Mặt Trận Giải Phóng. Như vậy ông đã cập nhật cho chúng tôi những gì đã xảy ra.” (tiết lộ của tướng Trần Bạch Đằng với tác giả, trang 305 – 306, Sdd như ở (5).

  8. 8. Hợp soạn với Hoài Chân cuốn “Thi Nhân Việt Nam”, sách tiền chiến 1942.

  9. 9. Cao Văn Luận, Bên Giòng Lịch Sử 1940 – 1965, hồi ký, Trí Dũng, Sài Gòn, 1972, trang 202 – 208.

  10. 10. Sdd như ở (9), trang 203.

  11. 11. Sđd như ở (10), trang 205 – 207

  12. 12. Hiền là một cán bộ tình báo trung cấp của Hà Nội, thuộc cụm tình báo M22, xâm nhập Sài Gòn Gia Định từ năm 1960, đặt cơ sở kinh tài ngụy trang dưới hình thức “Nhà May Dung” ở đường Hiền Vương Đa-Kao. Năm 1969 bị bắt và đày ra Côn Đảo sau  khi Tòa Án Quân Sự Mặt Trận Vùng III/CT kết án khổ sai chung thân. Được phóng thích trong đợt trao đổi tù binh năm 1973 tại Lộc Ninh, sau hòa đàm Ba-Lê. Trở lại miền nam hoạt động như cũ tại sào huyệt ở Xuân Lộc cho đến ngày miền Nam mất. Hiền là anh ruột cựu trung tá Trần Ngọc Châu, nguyên tỉnh trưởng Kiến Hòa, thị trưởng Đà Nẵng. Sau đảo chánh 1 – 11 – 63, Châu bị “đì”, giải ngũ rồi ra ứng cử dân biểu Hạ Viện. Đối lập với Thiệu, Châu bị phụ tá Nguyễn Cao Thăng tố là “Việt cộng nằm vùng”, bị Thiệu tước quyền, bãi miễn và bắt nhốt làm bạn với “ma vú dài” khám Chí Hòa đến 30-4-1975 mới được “giải phóng”. Tuy vậy, gặp lại sau ngày mất nước, Châu vẫn bị Hiền chối bỏ và đòi đem bắn. Châu vẫn bị “đi cải tạo đem theo 1 tháng tiền ăn”, nhưng mãi 3 năm sau mới về. Vượt biên năm 1979, hiện sống ở Mỹ.

  13. 13. _ “...Từ khi tôi ở Sài Gòn năm 1973, và xung quanh vùng ngoại ô, tôi là một sĩ quan độc nhất trên xe tăng biết được các đường phố. năm 1973 tôi đã chụp được tấm hình Dinh Độc Lập, vì thế tôi đã rõ những nơi chúng tôi cần phải tìm tới. Tôi đã đến Tân Sơn Nhứt để gặp phái đoàn Hung Gia Lợi và đã chụp được hình Dinh Độc Lập và cất giữ nó theo tôi. Tôi hướng dẫn đoàn xe tăng băng qua các đường phố để đến Dinh Độc Lập ... Tôi chỉ sợ có đụng độ tại Sài Gòn... Rồi khi nghe súng nổ, tội đoán chắc đã có giao tranh lớn, nhưng thực ra đó chỉ là binh sĩ bắn chỉ thiên để báo hiệu chiến tranh đã kết liễu. Sau đó tôi trực chỉ Dinh Độc Lập để nhận đầu hàng ... Tôi biết rất rõ đời tư của Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu, nhưng họ không hề hay biết gì về tôi cả...” (Đối thoại giữa tác giả và Bùi Tín) Sđd như ở (7), trang 299 – 300.

         


 

Copyright (c) DaiChung News Media 2002