|
|
|
Đại Chúng số 111 - ngày 1 tháng 12 năm 2002 |
|
TRANG THƠ Vài dòng về nhà văn nhà thơ chống cộng VÂN HẢI (Paris): Vân Hải là bút hiệu của Phạm thị Vân Hải, đã ra mắt những tác phẩmá: Mây Biển (thơ, 1996), Khuôn Mặt (truyện ngắn, 1997), Vương Vấn Đ âu Đây Mùi Hoa Sữa (truyện ngắn, 1999), Sao Hạnh Phúc (tiểu thuyết, 2000), Liễu (tiểu thuyết, 2002). Tất những tác phẩm đều do Ba Vì, Toronto Canada xuất bản. Vân Hải là học sinh Sainte Marie Hà Nội, Saint Dominique Hải Phòng và Saint Paul Saigon sau khi di cư. Bỏ ngang Dược Khoa Saigon để làm Tiếp Viên Hàng Không Air Việt Nam một thời gian rất ngắn. Lập gia đình với một phi công Air Việt Nam, Vân Hải đổi sang làm Trình Dược Viên cho viện bào chế TVT ở đường Yên Đổ Saigon đến khi miền Nam mất vào tay CS. Năm 1979, với chồng và hai con trai, gia đình Vân Hải vượt biển, sang Nam Dương và định cư tại Pháp từ năm 1980. Sau nhiều năm trở thành công chức tại quận hành chánh nơi cư ngụ, Vân Hải đã nghỉ nhà không lương để lo cho Cha già bịnh và đã không trở lại làm việc khi thân phụ qua đời, dành hết thì giờ cho việc viết sách và sinh hoạt cộng đồng. Hiện tại Vân Hải là Tổng Thư Ký Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại Pháp và Phó Chủ Tịch Hiệp Hội Tranh Đấu Nhân Quyền Cho Việt Nam, nhiệm kỳ 2002-2003
Bên lề đường Sau quầy thuốc lá nhỏ Ánh nắng ban chiều Nghiêng đổ xuống vai em Héo hắt, hom hem. Bên lề đường Sau chiếc xích lô khổ sở Bác phu già Ôm ngực thở ho hen Mắt ướt lem nhem. Bên lề đường Cởi truồng lũ em nhỏ Chơi vớI ống lon, VớI nút phéng Lê lết cũng quen. Bên lề đường Đời sống là dang dởLà vợ goá Là cha già Là trẻ nhỏ. Bê n lề đờiLà đời anh hết ngõ Trong lao tù Trong địa ngục trần gian BởI vì ai mà cả nước gian nan ?
XẠO HẾT CHỖ NÓI
Này anh vẹm, xin đừng nói nữa Anh ba hoa như thế đã nhiều rồiAnh nói nhiều, nói lắm cũng thế thôi Vì tôi biết anh là phường nói phét Mà người như anh đúng là quân tôi ghét
VÂN HẢI (Mây biển, tuyển tập thơ)
ĐỊA CHỈ TÔI
Nếu ai hỏi tôi, nơi nào địa chỉ? Đã qua nữa vòng trái đất đau thương.Tôi còn chi trong mắ t đời bão nổi.Suốt kiếp lưu vong không chốn về nguồn. * Tôi, nước mắt, giữa khung trời hải ngoại. Đã bao năm không mái ấm gia đì nh.Không cửa nhà, mưa nắng, mãi lênh đênh. Tôi tìm trong tôi nỗi sầu viễn xứ. Nếu hỏi tôi một chốn nào trú ngụ? Tôi nào đâ u có địa chỉ bao giờ.Kể từ khi bỏ quê cũ xa mờ, Vẫn sống bên lề phồn vinh phố thị. Địa chỉ tôi là góc đời ảo mị, Mãi lang thang, tìm một chốn ủi an. Oùc tim tôi in hình bóng xóm làng, Nắng cổ tích trên dậu tre, hoa, bướm. Xin hãy cho tôi tình quê thắm đượm. Địa chỉ tôi là một mái tranh nghèo.Ruộng lúa vàng làm lịch sử cuốn theo, Trong tình tự dân tôi vươn sóng lớn. Em hãy hiểu đời lưu vong tôi, vốn Chưa bao giờ tìm được một cõi về. Bởi hồn tôi khắc khoải từng đê m mê.Bến hạnh phúc là quê hương bất hạnh. * Em yêu dấu, khi nào em nữ thánh, Sẽ biết tôi còn thiếu chốn bằng an. Từ lưu đày, đã quá hai chục năm, Tôi ao ước địa chỉ nà o có thực.Nay quê nhà còn dẫy đầy áp bức. Đồng bà o tôi thiếu dân chủ tự do.Tôi lật trang lịch sử biến thành thơ. Xin dốt đuốc xác thân nầy tranh đấu. Rồi có ngày tôi, em về bến đậu, Trên luống rau gốc lúa của quê hương. Địa chỉ tôi là mái lá bình thường.Em thấy đó, giấc mơ tôi nhỏ, bé.
ĐỊA DANH, OANH LIỆT
Mao Hồ cũng sắp hết thời! Ta chờ nó sập, anh mời em ra, Đ i thăm Bắc Bộ quê nhà,Bắc kỳ là xứ ngọc ngà lưu ly Của bao triều đại quốc kỳ, Việt Nam phất phới uy nghi trên thành, Đại la Lạc Việt bì nh sanh,Nam phương oanh liệt, trời sanh anh hùng. Thăm sông Như Nguyệt lẫy lừng; Bạch Đằng bát ngát, sông rừng Việt NamTa đi thăm ải Nam Quan, Chương Dương, Kiếp Bạc những toàn địa linh. Còn đ ây đặc biệt địa hình,Cổ Loa oanh liệt quân mình năm xưa. Phát minh ra nỏ thượng thừa. Thành cao, hào luỹ, ngă n ngừa, ngoại xăm.Trở về Hà Nội, Gia Lâm, Nghỉ ngơi mấy bữa đi lần này thăm. Đồng quê , làng xóm, đồng bằng.Đi bằng xe đạp, ngắm trăng tà tà.Đầu tiên ta đến Sa- Pa Nơi đây phong cảnh thật là thần tiên.Miền Nam ta ghé Hà Tiên, Lại ra miền Bắc thăm miền đồng quê Ta đi thăm nẻo Sơn K hê,Thăm Thác Bản Giốc, rồi về Đồng Đăng. Ghé qua thăm Aûi Chi Lăng. Thăm nàng Tô Thị, rồi thăm Hải Phò ng.Hải Phòng, Uông Bí, Hạ Long, Trở về Nam Bộ tạm xong chuyến này. Quê hương muôn vẻ đắm say, Danh lam, thắng cảnh ở ngay nước mình
TÔI XÓT TÔI THƯƠNG
Thuở ấy xa xôi quá mất rồi Trôi đi thăm thẳm tít mù khơiGiờ đây nghĩ lại lò ng ngao ngánChỉ thấy bồi hồi nhớ tiếc thôi. Thuở ấy : Cụ già tóc bạc phơ Thanh nhàn đọc sách lại ngâm thơ Công danh phú quí hồng trần mộng Coi nhẹ hơn là sợI tóc tơ. Thuở ấy Mẹ Cha thực hả lòng Con dòng, cháu giống, một nhà chung Sớm chiều phụng dưỡng, đê m nâng giấcHiếu thảo hiền hoà rạng tổ tông. Thuở ấy bao nhiêu cặp vợ chồng Phải duyên vừa lứa đáng mừng không Môi cườI miệng nói như hoa nở Phu xướng phụ tùy tát biển đông. Thuở ấy biết bao lứa tuổI xanh Đều là gái lịch với trai thanhMẹ Cha gầy dựng, đâu ngồi đấy Chỉ thắm tơ hồng vẫn đẹp xinh. Thuở ấy non sông quả thái bình Quanh năm ngà y tháng sống phồn vinhHọ hàng làng xóm đều vui vẻ Đối xử cù ng nhau mặn nghĩa tình.Thuở ấy lòng dân hợp Ý Trời Thuần phong mỹ tục khắp nơi nơi Cương thường đạo lý cò n nguyên vữngHạnh phúc chung cho cả mọi người. Đến nay ghĩ lại, hỡI than ôi Đổ nát tan hoang hết cả rồi Qua trận khói đen cơn lửa đỏ Đau lò ng nhớ tiếc thuở xa xôi.
|
|
Copyright (c) DaiChung News Media 2002
|