Đại Chúng số 102 - Ngày 16 tháng 7 năm 2002

Duramax

MỘT KHOẢNG TRỜI THƠ

Đỗ Bình

Hành trình vào cõi thơ là làm một cuộc phiêu lưu vô tận. Thơ bắt nguồn từ cảm xúc tâm hồn, những ơi ẩn chứa những khối tình thiêng liêng sâu kín nhất. Phải chăng làm thơ là đi giữa cõi mộng và thực để đời trổ nhánh đâm hoa và đưa thực vào mộng cho hồn vơi đi những nỗi đau trần thế! Thi hào Nguyễn Du mở đầu tác phẩm bất hủ Đoạn Trường Tân Thanh đã viết:

“Trăm năm trong cõi người ta,

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.

Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng."

Thi nhân nặng nợ với tình thơ chẳng khác chi kiếp tằm nhả tơ? Người nghệ sĩ ước mơ lớn nhất của họ là để lại cho đời dăm ba tác phẩm hay hay ít bài thơ đắc ý. Dù mai sau tác giả có đi vào quên lãng thì những vần thơ trác tuyệt đó cũng dệt cho đời những đóa hoa muôn sắc. Hồn thơ tựa làn khói, mùi hương mà hương thì vô ảnh nên người đời chỉ cảm nhận. Nhưng, ngay cả lúc hữu tình hồn thơ hóa thể thành sợi khói, vầng mây ... nhìn thấy được nhưng nào ai nắm bắt? Phải đợi sự rung cảm của con tim thúc đẩy, hồn thơ nhập vào thi nhân thơ mới bật. Thơ vốn sẵn trong thiên nhiên, hàm chứa nhiều tính chất trong trời đất. Ngôn ngữ của thơ đôi khi ẩn trong văn, nhạc và hội họa, nhưng hình ảnh và nhạc điệu của ngôn ngữ thơ lại rất khác với văn xuôi mà chỉ có những tâm hồn thơ mới cảm nhận được. Nhà thơ không làm công việc của nhưng lý luận, nhà khoa học, nhà thần học hay triết gia ... để tìm cái mới lạ trong thế giới hiện hữu, cái huyền bí của vũ trụ ... nhưng thi nhân có thể sống với tôn giáo, luân lý qua tâm linh để phát hiện thêm lẽ đạo của cuộc đời, và sống triế qua thơ? Thi sĩ Bùi Giáng đã thở bằng thơ trong bài Đi Vào Cõi Thơ thi sĩ đã minh họa: "...Cõi thơ là cõi bồng phiêu ..."

Nhập vào thơ là sống trong cõi phiêu bồng. Cây khô làm sao nở hoa, thơ cũng thế chỉ rộ ở những tâm hồn nghe được tiếng thở của con tim. Nhà thơ Đắc Trung đã diễn tả hồn thơ mình:

"Có những lúc thơ tràn như sóng vỡ

Bút mực nào gom kịp hết cho ta

Tim óc chơi vơi lạc thời thái cổ

Đổ xuôi về giòng hiện đại bao la...”

(Hồn Thơ)

Trong tiến trình của dòng lịch sử thi cakể từ thơ cổ đại đến dòng thơ tạo sinh hôm nay thì hình thức thơ có nhiều thay đổi. Nhưng hồn thi nhân vẫn thế, vẫn là một cõi riêng như giọt sương mai dù mong manh, nhưng vẫn long lanh dưới nắng hồng tỏa ra muôn sắc, rồi chỉ một thoáng sẽ tan vỡ và mang theo mầu diễm ảo về một cõi mơ hồ nào đó.

"Sương mai vương kiếp bụi trần,

long lanh trong nắng hóa trân châu ngời.

Phù du một thoáng chơi vơi,

Vỡ ra muôn mảnh chắp lời thơ say."

(Hồn Thơ)

Có những hình ảnh chỉ thoáng trong giấc mộng hay trong tâm tưởng những vẫn làm ngây ngất lòng người, phải chăng đó là những bài thơ không lời? Nhờ cảm xúc những hình ảnh tầm thường đơn điệu như sỏi, đa,ù mưa, nắng ... trở nên sống động có chất thơ như sỏi đá ngậm ngùi, linh hồn tượng đá, lệ đá xanh, chờ nhau hóa đá, tuổi đá buồn, mưa sầu nắng úa. Đó là những hình tượng, một trong những chất liệu dự phần vào cấu trúc hình thành thơ. Vì ngoại cảnh chi phối lòng người mà tâm hồn thi nhân lại đa sầu đa cảm nên dễ rung động trước cảnh vật hữu tình. Do đó những hình ảnh bất chợt như có một linh hồn đã giao cảm gợi cho thi nhân nguồn cảm hứng dạt dào cho đời những bức tranh thơ tuyệt tác. Nguyễn Du đã họa câu thơ:

"Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa."

(Kim Vân Kiều)

Từ ngàn xưa gió trăng vẫn thế, không mang cảm tính, nhưng kể từ khi có thi nhân xuất hiện đã đem ngoại cảnh hòa với tâm cảnh để gió trăng kề cận, giao duyên với nhau. Gió tuy gần nhưng lại vô hình bóng, thế mà gió cũng biết lả lơi đùa trên vầng tóc rối ... Trăng tuy xa vời vợi, nhưng trăng bỗng hóa gần để ngậm ngùi chia xẻ những đau thương của mảnh đời rụng vỡ. Thi sĩ Hàn Mặc Tử đã họa một bức tranh qua câu thơ tuyệt vời:

“Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi.

Hoa lá ngây tình không muốn đọng,

Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi."

(Bẽn Lẽn)

Thơ là thông điệp của tình yêu nơi chứa đầy hương thơm mật ngọt lẫn trái đắng. Xưa có một thi nhân bị người đời quên tên tuổi đã tặng cho đời bài thơ tình tuyệt diệu còn truyền tụng mãi đến hôm nay.

“Hôm qua tát nước đầu đình,

Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen.

Em được thì cho anh xin,

Hay là em để làm tin trong nhà..."

Thơ tình chứa đầy tính lãng mạn, là lời ru lẫn tiếng nấc của con tim như dòng suối mát hương thơm nâng niu tình yêu, nên đôi khi ý thơ vượt trước thời đại, chối bỏ những ràng buộc luân lý của xã hội đương thời còn khép kín. Thật ra từ khi xuất hiện con người thì tính lãng mạn cũng phát sinh. Nhà thơ thường thả hồn theo trăng sao để gởi về nơi xa xăm ấy một chút tình. Chỉ có nhà thơ mới dám bộc lộ lòng mình. Thi sĩ TTKH để lại bài thơ tình còn lưu trong văn học mà một thời đã gây xôn xao:

"Từ ấy thu rồi thu lại thu

Lòng tôi còn giá đến bao giờ

Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ

Người ấy cho nên vẫn hững hờ

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời

Aùi ân lạnh lẽo của chồng tôi

Mà từng thu chết, từng thu chết

Vẫn giấu trong tâm bóng một người ..."

(Hai Sắc Hoa Ti Gôn)

Dòng lãng mạn hòa với tâm linh khiến hồn thơ chấp cánh bay vào cõi bồng phiêu, nơi ấy chỉ còn lại chấm sáng của tình yêu. Thi sĩ Đinh Hùng nương theo Mê Hồn Ca để vào cõi huyền hoặc bằng con tim nồng cháy, như ánh lửa hơ ấm những tâm hồn ở bên kia bờxa thẳm qua bài Gửi Người Dưới Mộ:

".......

Cười lên em, khóc lên em

Đâu trăng tình sử nét trần duyên

Gót sen tố nữ xôn xao đêm huyền

Ta đi lạc xứ thần tiên

Hồn trùng dương hiển bóng thuyền u minh

Ta gởi bài thơ anh linh

Hỡi người trong mộ có rùng mình

Nắm xương khô lạnh còn ân ái

Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình

Hỡi hồn tuyết trinh, hỡi người tuyết trinh

Mê em ta thoát thân hình

Nhập hồn cây cỏ đa tình mỗi đêm..."

Ỡ thuở ban đầu đường tình mới chớm nở, nhà thơ Lê Nguyễn đã say hương, xem thơ và người tình đều là tri kỷ. Thơ đã giúp tình yêu thăng hoa:

"Thuở yêu em anh đã tập tễnh làm thơ

Những trang thơ như người tình thủy chung

Theo anh suốt thời vụng dại!

Em quyện vào thơ dệt nên trang huyền thoại!

Giữa mây trời sáng giọt nắng long lanh..."

(Muôn Mãi Còn Nhau)

Có nhiều khi thơ đã khơi dậy những niềm đau sâu kín nơi vùng ký ức mà người đời chỉ biểu lộ qua tiếng thở dài. Nhà thơ Cung Diễm đã vỗ về nỗi buồn qua đoạn thơ:

"... Vường khuya, lối trải vàng trăng

Vườn yêu, ai trải giá băng lối vào!

Hững hờ đến thế, đành sao?

Thôi ta về với chiêm bao riêng mình ..."

(Dưới Bóng Trăng Vàng)

Chỉ có thơ mới gom những tư tưởng chứa đầymàu sắc hội họa, cung bậc âm nhạc và ngoại cảnh của thiên nhiên để diễn tả nỗi lòng qua những câu thơ ca ngợi khối tình. Thi sĩ Duy Năng dạt dào cảm xúc đã viết:

"... Tất cả sao trời trong mắt em

Nụ cười châu báu ánh trăng đêm

Xôn xao triều sóng vương làn tóc

Và ánh dương nồng môi trái tim ..."

(Nhìn em ... dáng vóc)

Nếu hội họa khởi đi từ óc tưởng tượng và do bàn tay khéo léo biết kết hợp màu sắc ánh sáng, bóng tối và đuờng nét để tạo nên bức tranh ấn tượng, thì thơ cũng cần có sự tưởng tượng để tạo nên hình ảnh sinh động. Trong bài thơ Tương Tư của thi sĩ Nguyên Sa là một bức tranh ấn tượng mà họa sĩ muốn họa lại nét thơ, chắc sẽ phải dừng cọ rất lâu để tìm chất liệu tạo hình:

“Tôi đã gặp em từ bao giờ

Kể từ nguyệt bạch xuống đêm khuya

Kể từ gió thổi trong vừng tóc

Hay lúc thu về cánh nhạn kia

Có phải em mang trên áo bay,

Một phần gió thổi một phần mây.

Hay là em gói mây trong áo?

Rồi thở cho làn áo trắng bay ..."

(Tương Tư)

Nhà thơ Luân Hoán đã thả hồn với tha nhân qua câu thơ đầy xúc cảm, diễn tả tâm trạn của những kẻ đang yêu, nhà thơ đã tô đẹp thêm ý nghĩa chữ tình:

"Mỗi lần sắp sửa yêu ai

Tự nhiên mặt mũi tóc tai lạ lùng

Tưởng như có triệu vi trùng

Ngo ngoe đòi được nhớ nhung với mình ..."

(Triệu Chứng)

Thi sĩ Thái Can qua bài Anh Biết Em Đi:

Anh biết em đi chẳng trở về

Dặm nghìn liễu khuất với sương che

Em đừng quay lại nhìn anh nữa

Anh biết em đi chẳng trở về”

Thời nào cũng thế, người đi học thì nhiều như lá mùa thu,những kẻ sĩ thì hiếm! Nhất là khi đất nước có chiến tranh, hay bị giặc ngoại bang xâm chiếm, chỉ có kẻ sĩ mới dám dấn thân và lên tiếng. Trong lãnh vực thi ca cũng vậy, không phải lúc nào thơ cũng sướt mướt lời tự tình thổn thức chuyện lứa đôi, mà thơ còn nhập vào hồn thiêng sông núi, biến theo dòng thế sự, hòa với sự thăng trầm của dòng lịch sử dân tộc. Hồn thơ cũng hừng hực như hỏa diệm sơn, cuồn cuộn hơn thác lũ, sắc bén như ngàn gươm dao, mạnh hơn vạn quân. Là ngọn lửa kích động tinh thần chốn ngoại xâm. Xưa nay danh tướng Lý Thường Kiệt đã viết bài "Nam Quốc Sơn Hà" như một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc:

"Nam quốc sơn hà nam đế cư,

Tiệt nhiên phận định tại thiên thư.

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

Nhữ đẳng hành khang thủ bại hư.”

Trong dòng lịch sử thế giới có một thời dấu vó ngựa của đoàn quân Mông Cổ đã tung bụi mờ khắp muôn dặm, làm bạt vía trời Châu Á. Thế giặc Nguyên thuở đó như sóng vỡ tiến vào nước ta, vui tôi nhà Trần một lòn giữ nước, quyết chống ngoại xâm. Hưng Đạo Vương đã soạn ra một quyển "Binh thư yếu lược". Bài Hịch Tướng Sĩ:

"Hỡi tướng sĩ cầm binh dưới trướng,

Cơm áo vua an hưởng bấy lâu.

Chúa lo, phải biết âu sầu

Đầu quân mông cổ bao màu hổ người?

Nghĩ đến lúc vua tôi mắc nạn!

Nhà các ngươi điền sản cũng tan.

Các ngươi nên phải lo toan,

Nằm gai nếm mật, an nhàn sao yên ..."

Bài Bình Ngô Đại Cáo của thiên tài Nguyễn Trãi không những là khúc ca hùng tráng của dân tộc mà còn làm rạng rỡ nền văn hoc cổ điển nước nhà:

“Tốt năng dĩ đại nghĩa, nhi thắng hung tàn,

Dĩ chí nhân, nhi địch cường bạo."

(Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

lấy chí nhân mà thay cường bạo)

Ngày xưa tráng sĩ Đặng Dung đã giải bày tấm lòng trung liệt qua câu thơ đầy khí tiết:

"Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,

Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma.”

(Thù chưa trả xong đầu đã bạc,

Dưới trăng bao độ tuốt gươm mài.)

Bước vào cõi thơ là để lắng nghe tiếng lòng thỏ thẻ của thi nhân, tùy theo tâm cảnh mỗi nhà thơ để thả hồn mình hòa nhập với ngoại cảnh. Thi sĩ Tản Đà đã trải tấm lòng qua lời thơ đầy tình tự quê hương:

"Nước non nặng một lời thề

Nước đi đi mãi không về cùng non

Nhớ lời "nguyện ước thề non"

Nước đi chưa lại non còn đứng trông...”

(Thề Non Nước)

Thi sĩ Thân Tâm qua bài Tống Biệt Hành đã nói lên cái khí tiết của kẻ sĩ thời xưa nào có khác nay:

“Đưa người ta không đưa sang sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng

Bóng chiều không thắm không vàng vọt;

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong.

Đưa người, ta chỉ đưa người ấy

Một giã gia đình một dửng dưng

Ly khách! Ly khách con đường nhỏ,

Chí lớn chưa về bàn tay không

Thì không bao giờ trở lại!

Ba năm mẹ già cũng đừng mong ...”

Nhà thơ Nguyễn Bá Trạc mang mối sầu mất nước, đã gởi tâm sự mình qua bài Hồ Trường:

" ... Bốn bể luân lạc tha hương

Trời nam ngàn dặm thẳm

Non nước một màu sương

.....

Vỗ gươm mà hát

Nghiêng bầu mà hỏi

Thien hạ mang mang ai người tri kỷ

Lại đây cùng ta cạn một hồ trường

Hồ trường, hồ trường

Ta biết rót về đâu ...

... Có người quá chén như điên cuồng

Nào ai tỉnh, nào ai say?

Chí ta ta biết, lòng ta ta hay ..."

Nhiều khi thi nhân bị người đời gán cho là những kẻ "thương vay khóc mướn”, điều ấy có quá khắt khe chăng? Nhà thơ nào phải là tượng đá! Hồn thơ sẽ xanh rêu và chết yểu khi chẳng còn rung cảm trước những biến đổi buồn vui của ngoại cảnh, để hòa với nhịp sống thiên nhiên, nỗi đau của tha nhân hay tự xoa dịu niềm đau của chính thân phận mình. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã tả về đất nước và thân phận những con người trước sóng hãi hùng của biển cả vào giai đoạn giữa thế kỷ 20 qua bài Phương Xa:

"Nhổ neo rồi, thuyền ơi! Xin mặc sóng

Xô về đông hay dạt tới phương đoài,

Xa mặt đất giữa vô cùng cao rộng,

Lòng cô đơn, cay đắng, họa dần vơi.

.........

Lũ chúng ta, đầu thai nhằm thế kỷ

Một đôi người u uất nỗi trơ vơ,

Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị

Thuyền ơi thuyền! Xin ghé bến hoang sơ ..."

Có nhiều khi thơ là tiếng uất nghẹn, là lời than từ đáy ngục tù, nơi giam hãm những tâm hồn yêu tự do. Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, người đã bị tù hơn một phần tư thế kỷ trong địa ngục đỏ đã giải bày:

"... Thơ của tôi là tiếng cuộc đời nức nở

Tiếng của nhà giam ngòm đen khép mở

Tiếng khò khè hai lá phổi hang sơ

Tiếng đất vùi đổ xuống lấp niềm mơ

Tiếng khai quật cuốc đào lên nỗi nhớ ..."

(Thơ của tôi)

(còn tiếp 1 kỳ nữa)

         


 

Copyright (c) DaiChung News Media 2002